Bản dịch của cụ Nguyễn Hiến Lê
Lời tựa:
“Chúng ta đã có vài ba bản dịch Đạo đức kinh rồi.
Tôi góp thêm một bản dịch nữa, với một phần giới thiệu khoảng 100 trang về học thuyết của Lão tử.
Theo
các học giả Trung Hoa gần đây, cho rằng Lão sinh sau Khổng, Mặc, trước
Mạnh; và bộ Đạo đức kinh xuất hiện sau Luận ngữ, vào thế kỉ thứ IV hay
thứ III, trước Tây lịch, do môn sinh của Lão tử chép lại lời thầy; tuy
có khoảng mười chương của người đời sau thêm vào nhưng tư tưởng vẫn là
nhất trí.
Lão
tử là triết gia đầu tiên của Trung Quốc luận về vũ trụ, có một quan
niệm tiến bộ, vô thần về bản nguyên của vũ trụ mà ông gọi là Đạo. Ông
lại xét tính cách và qui luật của Đạo, dùng những qui luật đó làm cơ sở
cho đạo ở đời và đạo trị nước, tức cho một nhân sinh quan và một chính
trị quan mới mẻ. Do đó mà học thuyết của ông hoàn chỉnh nhất, có hệ
thống nhất thời Tiên Tần.
Ông
tặng cho hậu thế những tư tưởng bình đẳng, tự do, trọng hoà bình, không
tranh giành nhau mà khoan dung với nhau (dĩ đức báo oán), trở về tự
nhiên, sống thanh tịnh. Trở về tự nhiên theo ông không phải là trở về
thời ăn lông ở lỗ, sống bằng săn bắn và hái trái cây, mà trở về buổi đầu
thời đại nông nghiệp, thời bộ lạc, có tù trưởng nhưng tù trưởng cũng
sống như mọi người khác, không can thiệp vào đời sống của dân. Nước thì
nhỏ mà dân ít; các nước láng giềng trông thấy nhau, nghe được tiếng cho
sủa, tiếng gà gáy của nhau mà dân các nước không qua lại với nhau, có
thuyền có xe mà không ngồi, dùng lối thắc dây thời thượng cổ mà không có
chữ viết (chương 80). Thời đó có thể là thời Nghiêu Thuấn mà tất cả các
triết gia thời Tiên Tần đều cho là hoàng kim thời đại. Dĩ nhiên nhân
loại không lùi lại như vậy được và đọc Lão tử chúng ta chỉ nên nhớ rằng
ông muốn cứu cái tệ đương thời là đời sống đã phúc tạp quá, từ kinh tế
tới lễ nghi, chính trị, tổ chức xã hội; con người đã gian tham, xảo trá
nhiều, do đó mà loạn lạc, nghèo khổ.
Học
thuyết của ông bổ túc cho học thuyết của Khổng, nén bớt tinh thần hăng
hái hữu vi, quá thực tiễn của Khổng. Hiện nay người phương Tây chán nản
nền văn minh cơ giới, sản xuất để tiêu thụ rồi tiêu thụ để sản xuất,
muốn trở lại đời sống thiên nhiên, giản dị, nên Đạo đức kinh
lại được nhiều người đọc. Nhưng các chính trị gia không ai theo bài học
của ông cả; tôi nghĩ những câu như: “Càng ban nhiều lệnh cấm thì dân
càng nghèo” (Chương 57), “Can thiệp vào việc dân nhiều quá thì dân sẽ
trá nguỵ, chống đối” (Chương 60) rất đáng cho họ suy ngẫm”.
***
ĐẠO ĐỨC KINH
THIÊN THƯỢNG
-------
1
道可道, 非常道; 名可名, 非常名.
無, 名天地之始; 有, 名萬物之母.
故常無, 欲以觀其妙; 常有, 欲以觀其故常無, 欲以觀其妙; 常有, 欲以觀其徼.
此兩者, 同出而異名. 同謂之玄. 玄之又玄. 衆妙之門.
*
Đạo khả đạo, phi thường đạo; danh khả danh, phi thường danh.
Vô, danh thiên địa chi thủy; hữu, danh vạn vật chi mẫu.
Cố thường vô, dục dĩ quan kì diệu; thường hữu, dục dĩ quan kì kiếu.
Thử lưỡng giả, đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn.
*
Đạo
mà có thể diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cửu bất biến; tên mà
có thể đặt ra để gọi nó [đạo] thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến.
“Không”, là gọi cái bản thủy của trời đất; “Có” là gọi mẹ sinh ra muôn vật.
Cho
nên, tự thường đặt vào chỗ “không” là để xét cái thể vi diệu của nó
[đạo]; tự thường đặt vào chỗ “có” là để xét cái [dụng] vô biên của nó.
Hai cái đó [không và có] cũng từ đạo ra mà khác tên, đều là huyền diệu.
Huyền diệu rồi lại thêm huyền diệu, đó là cửa của mọi biến hóa kì diệu.
*
2
天下皆知美之爲美, 斯惡已; 皆知善之爲善, 斯不善已.
故有無相生, 難易相成, 長短相形, 高下相傾, 音聲相和, 前後相隨.
是以聖人處無爲之事, 行不言之教; 萬物作焉而不辭, 生而不有, 爲而不侍, 功成而不居. 夫唯不居, 是以不去.
*
Thiên hạ giai tri mĩ chi vi mĩ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ.
Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thanh tương hoà, tiền hậu tương tuỳ.
Thị
dĩ thánh nhân xử vô vi chi sự, hành bất ngôn chi giáo; vạn vật tác yên
nhi bất từ, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, công thành nhi bất cư. Phù
duy bất cư, thị dĩ bất khứ.
*
Ai
cũng cho cái đẹp là đẹp, do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái xấu; ai
cũng cho điều thiện là thiện, do đó mà phát sinh ra quan niệm về cái
ác.
Là
vì “có” và “không” sinh lẫn nhau; dễ và khó tạo nên lẫn nhau; ngắn và
dài làm rõ lẫn nhau; cao và thấp dựa vào nhau; âm và thanh hòa lẫn nhau;
trước và sau theo nhau.
Cho
nên, thánh nhân xử sự theo thái độ “vô vi”, dùng thuật “không nói” mà
dạy dỗ, để cho vạn vật tự nhiên sinh trưởng mà không can thiệp vào,
khéo nuôi dưỡng vạn vật mà không chiếm làm của mình, làm mà không cậy
khéo, việc thành mà không quan tâm tới. Vì không quan tâm tới nên sự
nghiệp mới còn hoài.
*
3
不尚賢, 使民不爭; 不貴難得之貨, 使民不爲盜; 不見可欲, 使 民心不亂.
是以聖人之治, 虛其心, 實其腹; 弱其志, 强其骨.
常使民無知無欲, 使夫智者不敢爲也, 爲無爲, 則無不治.
*
Bất thượng hiền, sử dân bất tranh; bất quí nan đắc chi hoá, sử dân bất vi đạo; bất hiện khả dục, sử dân tâm bất loạn.
Thị dĩ thánh nhân chi trị, hư kì tâm, thực kì phúc; nhược kì chí, cường kì cốt.
Thường sử dân vô tri vô dục, sử phù trí giả bất cảm vi giả, vi vô vi, tắc vô bất trị.
*
Không
trọng người hiền để cho dân không tranh. Không quí của hiếm để cho dân
không trộm cướp, không phô bày cái gì gợi lòng ham muốn, để cho lòng dân
không loạn.
Cho
nên, chính trị của thánh nhân là làm cho dân: lòng thì hư tĩnh, bụng
thì no, tâm chí thì yếu [không ham muốn, không tranh giành], xương cốt
thì mạnh.
Khiến cho dân không biết, không muốn, mà bọn trí xảo không dám hành động. Theo chính sách “vô vi” thì mọi việc đều trị.
*
4
道沖, 而用之或不盈, 淵兮, 似萬物之宗.
挫其銳, 解其紛, 和其光, 同其塵; 湛兮似或存.
吾不知誰之子, 象帝之先.
*
Đạo xung, nhi dụng chi hoặc bất doanh, uyên hề tự vạn vật chi tôn.
Toả kì nhuệ, giải kì phân, hoà kì quang, đồng kì trần; trạm hề tự hoặc tồn.
Ngô bất tri thuỳ chi tử, tượng đế chi tiên.
*
Đạo, bản thể thì hư không mà tác dụng thì cơ hồ vô cùng, nó uyên áo mà tựa như làm chủ tể vạn vật.
Nó
không để lộ tinh nhuệ ra, gỡ những rối loạn, che bớt ánh sáng, hòa đồng
với trần tục; nó sâu kín [không hiện] mà dường như trường tồn.
Ta không biết nó là con ai; có lẽ nó có trước thượng đế.
*
5
*
天地不仁, 以萬物爲芻狗; 聖人不仁, 以百姓爲芻狗.
天地之間, 其猶橐龠 乎! 虛而不屈, 動而愈出. 多言數窮, 不如守中.
*
Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu; thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.
Thiên địa chi gian, kì do thác thược hồ! Hư nhi bất khuất, động nhi dũ xuất. Đa ngôn sác cùng, bất như thủ xung.
*
Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm; thánh nhân bất nhân, coi trăm họ như chó rơm.
Khoảng
giữa trời đất như ống bễ, hư không mà không kiệt, càng chuyển động, hơi
lại càng ra. Càng nói nhiều lại càng khốn cùng, không bằng giữ sự hư
tĩnh.
6
谷神不死, 是謂玄牝, 玄牝之門, 是謂天地根.
綿綿若存, 用之不勤.
*
Cốc thần bất tử, thị vị huyền tẫn, huyền tẫn chi môn, thị vị thiên địa căn.
Miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần.
*
Thần hang bất tử, gọi là Huyền Tẫn (Mẹ nhiệm màu); cửa Huyền Tẫn là gốc của trời đất.
Dằng dặc mà như bất tuyệt, tạo thành mọi vật mà không kiệt (hay không mệt).
*
7
天長地久. 天地所以能長且久者, 以其不自生, 故能長生.
是以聖人後其身而身先, 外其身而身存. 非以其無私耶? 故能成其私.
*
Thiên trường địa cửu. Thiên địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kì bất tự sinh, cố năng trường sinh.
Thị dĩ thánh nhân hậu kì thân nhi thân tiên, ngoại kì thân nhi thân tồn. Phi dĩ kì vô tư dả? Cố năng thành kì tư.
*
Trời đất trường cửu. Sở dĩ trời đất trường cửu được là vì không sống riêng cho mình, nên mới trường sinh được.
Vì
vậy thánh nhân đặt thân mình ở sau mà thân lại được ở trước, đặt thân
mình ra ngoài mà thân mới còn được. Như vậy chẳng phải vì thánh nhân
không tự tư mà thành được việc riêng của mình ư?
*
8
*
上善若水. 水善利萬物而不爭, 處眾人之所惡, 故幾於道.
居善地, 心善淵, 與善仁, 言善信, 正善治, 事善能, 動善時.
夫唯不爭, 故無尤.
*
Thượng thiện nhược thuỷ. Thuỷ thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ố, cố cơ ư đạo.
Cư thiện địa, tâm thiện uyên, dữ thiện nhân, ngôn thiện tín, chính thiện trị, sự thiện năng, động thiện thời.
Phù duy bất tranh, cố vô vưu.
*
Người
thiện vào bậc cao [có đức cao] thì như nước. Nước khéo làm lợi cho vạn
vật mà không tranh với vật nào, ở chỗ mọi người ghét (chỗ thấp) cho nên
gần với đạo.
[Người
thiện vào bậc cao] địa vị thì khéo lựa chỗ khiêm nhường, lòng thì khéo
giữ cho thâm trầm, cư xử với người thì khéo dùng lòng nhân, nói thì khéo
giữ lời, trị dân thì giỏi, làm việc thì có hiệu quả, hành động thì hợp
thời cơ.
Chỉ vì không tranh với ai, nên không bị lầm lỗi.
9
*
持而盈之, 不如其已; 揣而銳之, 不可長保.
金玉滿堂, 莫之能守; 富貴而驕, 自遺其咎. 功成身退, 天之道.
*
Trì nhi doanh chi, bất như kì dĩ; suỷ nhi nhuệ chi, bất khả trường bảo.
Kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ; phú quý nhi kiêu, tự di kì cữu. Công thành thân thoái, thiên chi đạo.
*
Giữ chậu đầy hoài, chẳng bằng thôi đi; mài cho bén nhọn thì không bén lâu.
Vàng ngọc đầy nhà, làm sao giữ nổi; giàu sang mà kiêu là tự rước lấy họa.
Công thành rồi thì nên lui về, đó là đạo trời.
10
載營魄抱一, 能無離乎? 專氣致柔, 能嬰兒乎? 滌除玄覽, 能無疵乎? 愛國治民, 能無爲乎? 天門開闔, 能爲雌乎? 明白四達, 能無知乎?
生之畜之, 生而不有, 爲而不恃, 長而不宰, 是謂玄德.
*
Tải
doanh phách bão nhất, năng vô li hồ? Chuyên khí trí nhu, năng anh nhi
hồ? Địch trừ huyền lãm, năng vô tì hồ? Ái quốc trị dân, năng vô vi hồ?
Thiên môn khai hạp, năng vi thư hồ? Minh bạch tứ đạt, năng vô tri hồ?
Sinh nhi súc chi, sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trường nhi bất tể, thị vị huyền đức.
*
Cho
hồn, phách thuần nhất, không rời đạo được không? Cho cái khí tụ lại,
mềm mại như đứa trẻ sơ sinh được không? Gột rửa tâm linh cho nó không
còn chút bợn được không? Yêu dân trị nước bằng chính sách vô vi được
không? Vận dụng cảm quan để giữ hư tĩnh được không? Chân tri sáng rỡ
hiểu biết được tất cả mà không dùng tới trí lực được không?
[Sinh
và dưỡng vạn vật. Sinh mà không chiếm cho mình, làm mà không cậy công,
để cho vạn vật tự lớn lên mà mình không làm chủ, như vậy gọi là huyền
đức - đức cao nhất, huyền diệu].
*
11
*
三十輻, 共一轂, 當其無, 有車之用. 埏埴以爲器, 當其無, 有器之用.
鑿戶牖以爲室, 當其無, 有室之用. 故有之以爲利, 無之以爲用.
*
Tam thập phúc, cộng nhất cốc, đương kì vô, hữu xa chi dụng. Duyên thực dĩ vi khí, đương kì vô, hữu khí chi dụng.
Tạc hộ dũ dĩ vi thất, đương kì vô, hữu thất chi dụng. Cố hữu chi dĩ vi lợi, vô chi dĩ vi dụng.
*
Ba
mươi tay hoa cùng qui vào một cái bầu, nhưng chính nhờ khoảng trống
không trong cái bầu mà xe mới dùng được.Nhồi đất sét để làm chén bát,
nhưng chính nhờ khoảng trống ở trong mà chén bát mới dùng được.Đục cửa
và cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được.
Vậy ta tưởng cái “có” [bầu, chén bát, nhà] có lợi cho ta mà thực ra cái “không” mới làm cho cái “có” hữu dụng.
12
*
*
Ngũ
sắc linh nhân mục manh; ngũ âm linh nhân nhĩ lung; ngũ vị linh nhân
khẩu sảng; trì sính điền liệp linh nhân tâm phát cuồng; nan đắc chi hoá
linh nhân hành phương. Thị dĩ thánh nhân vị phúc bất vị mục, cố khứ bỉ
thủ thử.
*
Ngũ
sắc làm cho người ta mờ mắt; ngũ âm làm cho người ta ù tai; ngũ vị làm
cho người ta tê lưỡi; ruổi ngựa săn bắn làm cho lòng người ta mê loạn;
vàng bạc châu báu làm cho hành vi người ta đồi bại. Cho nên thánh nhân
cầu no bụng mà không cầu vui mắt, bỏ cái này mà lựa cái kia [tức cầu
chất phác, vô dục mà bỏ sự xa xỉ, đa dục].
*
寵辱若驚, 貴大患若身. 何謂寵辱若驚? 寵爲上, 辱爲下, 得之若驚, 失之若驚, 是謂寵辱若驚. 何謂貴大患若身? 吾所以有大患者, 爲吾有身, 及吾無身, 吾有何患? 故貴以身爲天下, 若可寄天下; 愛以身爲天下, 若可託天下.
*
[Sủng
nhục nhược kinh, quí đại hoạn nhược thân]. Hà vị sủng nhục nhược kinh?
Sủng vi thượng, nhục vi hạ, đắc chi nhược kinh, thất chi nhược kinh, thị
vị sủng nhục nhược kinh. Hà vị quí đại hoạn nhược thân? Ngô sở dĩ hữu
đại hoạn giả, vi ngô hữu thân, cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn? Cố quý
dĩ thân vi thiên hạ, nhược khả kí thiên hạ; ái dĩ thân vi thiên hạ,
nhược khả thác thiên hạ.
[Người đời được vinh hay bị nhục thì lòng sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì sinh ra rối loạn].
Tại
sao vinh, nhục sinh ra rối loạn? Là vì vinh thì được tôn, nhục thì bị
hèn; được thì lòng [mừng rỡ mà] rối loạn, mất thì lòng [rầu rĩ mà] rối
loạn; cho nên bảo là vinh nhục sinh ra rối loạn.
Tại
sao sợ vạ lớn mà sinh ra rối loạn? Chúng ta sở dĩ sợ vạ lớn là vì ta có
cái thân. Nếu ta không có thân [quên mình có thân đi] thì còn sợ gì tai
vạ nữa.
*
14
視之不見名曰夷; 聽之不聞名曰希; 搏之不得名曰微. 此三者不可致詰, 故混而爲一.
其上不皦, 其下不昧, 繩繩不可名, 復歸於無物. 是謂無狀之狀, 無物之象, 是謂惚恍. 迎之不見其首, 隨之不見其後.
執古之道, 以御今之有; 能知古始, 是謂道紀.
*
Thị
chi bất kiến danh viết di; thính chi bất văn danh viết hi; bác chi bất
đắc danh viết vi. Thử tam giả bất khả trí cật, cố hỗn nhi vi nhất.
Kì
thượng bất kiểu, kì hạ bất muội, thằng thằng bất khả danh, phục qui ư
vô vật. Thị vị vô trạng chi trạng, vô vật chi tượng, thị vị hốt hoảng.
Nghinh chi bất kiến kì thủ, tuỳ chi bất kiến kì hậu.
Chấp cổ chi đạo, dĩ ngự kim chi hữu; năng tri cổ thuỷ, thị vị đạo kỉ.
*
Nhìn không thấy gọi là di, nghe không thấy gọi là hi, nắm không được gọi là vi.
Ba cái đó (di, hi, vi, tức vô sắc, vô thanh, vô hình) truy cứu đến cùng
cũng không biết gì được, chỉ thấy trộn lộn làm một thôi.
Ở
trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt, không thể gọi
tên, nó lại trở về cõi vô vật, cho nên bảo là cái trạng không có hình
trạng, cái tượng không có vật thể. Nó thấp thoáng, mập mờ. Đón nó thì
không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi.
Ai
giữ được cái đạo từ xưa vẫn có thì có thể khống chế được mọi sự vật
ngày nay; biết được cái nguyên thủy tức là nắm được giềng mối của đạo.
*
15
*
古之善爲道者, 微妙玄通, 深不可識. 夫唯不可識, 故强爲之容.
豫兮, 若冬涉川; 猶兮, 若畏四鄰; 儼兮, 其若客; 渙兮, 若冰之將釋; 敦兮, 其若樸; 曠兮, 其若谷; 混兮; 其若濁.
孰能濁以靜之徐清? 孰能安以動之徐生? 保此道者, 不欲盈. 夫唯不盈, 故能蔽而新成.
*
Cổ chi thiện vi đạo giả, vi diệu huyền thông, thâm bất khả thức. Phù duy bất khả thức, cố cưỡng vị chi dung.
Dự hề, nhược đông thiệp xuyên; do hề, nhược úy tứ lân; nghiễm hề, kì nhược khách; hoán hề, nhược băng chi tương thích; đôn hề, kì nhược phác; khoáng hề, kì nhược cốc; hỗn hề, kì nhược trọc.
Thục năng trọc dĩ tĩnh chi từ thanh? Thục năng an dĩ động chi từ sinh? Bảo thử đạo giả, bất dục doanh. Phù duy bất doanh, cố năng tế nhi tân thành.
*
Người
đắc đạo thời xưa tinh tế, mầu nhiệm, thông đạt, sâu xa không thể biết
được. Vì không thể biết được, nên phải miễn cưỡng tả họ như sau:
Họ
rụt rè như mùa đông lội qua sông, nghi ngại như sợ láng giềng bốn bên,
nghiêm chỉnh như một người khách, chảy ra, lưu động như băng tan, dày
dặn mộc mạc như gỗ chưa đẽo, không hư như cái hang, hỗn độn (lờ đờ) như
nước đục.
Ai
có thể đương đục mà lắng xuống để lần lần trong ra? Ai có thể đương hư
tĩnh mà phát động để lần lần sinh động lên? Người nào giữ được đạo ấy
thì không tự mãn. Vì không tự mãn nên mới bỏ cái cũ mà canh tân được.
16
*
致虛極, 守靜篤, 萬物並作, 吾以觀復.
夫物芸芸, 各復歸其根. 歸根曰靜, 是謂復命. 復命曰常. 知常曰明, 不知常, 妄作凶.
知常容, 容乃公, 公乃全, 全乃天, 天乃道, 道乃久, 没身不殆.
*
Trí hư cực, thủ tĩnh đốc, vạn vật tịnh tác, ngô dĩ quan phục.
Phù
vật vân vân, các phục qui kì căn. Qui căn viết tĩnh, thị vị phục mệnh.
Phục mệnh viết thường. Tri thường viết minh, bất tri thường vọng tác
hung.
Tri thường dung, dung nãi công, công nãi toàn, toàn nãi thiên, thiên nãi đạo, đạo nãi cửu, một thân bất đãi.
*
Hết
sức giữ được cực hư, cực tĩnh xem vạn vật sinh trưởng ta thấy được qui
luật phản phục [vạn vật từ vô mà sinh ra rồi trở về vô].
Vạn
vật phồn thịnh đều trở về căn nguyên của chúng [tức đạo]. Trở về căn
nguyên thì tĩnh, [tĩnh là bản tính của mọi vật, cho nên] trở về căn
nguyên gọi là “trở về mệnh”. Trở về mệnh là luật bất biến (thường) của
vật. Biết luật bất biến thì sáng suốt, không biết luật bất biến thì vọng
động mà gây hoạ.
Biết
luật bất biến thì bao dung, bao dung thì công bình [vô tư], công bình
thì bao khắp, bao khắp thì phù hợp với tự nhiên, phù hợp với tự nhiên
thì phù hợp với đạo, hợp với đạo thì vĩnh cửu, suốt đời không nguy.
17
*
太上, 不知有之; 其次, 親而譽之; 其次, 畏之; 其次, 侮之.
信不足焉, 有不信焉. 悠兮, 其貴言. 功成事遂, 百姓皆謂: 我自然.
*
Thái thượng, bất tri hữu chi; kì thứ, thân nhi dự chi; kì thứ, uý chi; kì thứ, vũ chi.
Tín bất túc yên, hữu bất tín yên. Du hề, kì quí ngôn. Công thành sự toại, bách tính giai vị: ngã tự nhiên.
*
Bậc
trị dân giỏi nhất thì dân không biết là có vua, thấp hơn một bực thì
dân yêu quí và khen; thấp hơn nữa thì dân sợ; thấp nhất thì bị dân khinh
lờn.
Vua
không đủ thành tín thì dân không tin. Nhàn nhã, ung dung [vì vô vi] mà
quí lời nói. Vua công thành, việc xong rồi mà trăm họ đều bảo: “Tự nhiên
mình được vậy”.
18
*
大道廢, 有仁義; 智慧出, 有大僞; 六親不和, 有孝慈; 國家昏亂, 有忠臣.
*
Đại đạo phế, hữu nhân nghĩa; trí tuệ xuất, hữu đại ngụy; lục thân bất hoà, hữu hiếu từ; quốc gia hôn loạn, hữu trung thần.
*
Đạo
lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy;
gia đình (cha mẹ, anh em, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ;
nước nhà rối loạn mới có tôi trung.
19
*
絕聖棄智, 民利百倍; 絕仁棄義, 民復孝慈; 絕巧棄利, 盜賊無有.
此三者以爲文不足, 故令有所屬: 見素抱樸, 少思寡欲.
Tuyệt thánh khí trí, dân lợi bách bội; tuyệt nhân khí nghĩa, dân phục hiếu từ; tuyệt xảo khí lợi, đạo tặc vô hữu.
Thử tam giả dĩ vi văn bất túc, cố linh hữu sở thuộc: hiện tố bão phác, thiểu tư quả dục.
*
Dứt
thánh (thánh hiểu theo quan niệm Khổng, Mặc) bỏ trí, dân lợi gấp trăm;
dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt [trí] xảo bỏ lợi, không có trộm
giặc.
Ba
cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ (trang sức bề
ngoài) không đủ (để trị dân) cho nên (phải bỏ mà) khiến cho dân qui
(hoặc chuyên chú) về điều này: ngoài thì biểu hiện sự mộc mạc, trong thì
giữ sự chất phác, giảm tư tâm, bớt dục vọng.
20
*
絕學無憂. 唯之與阿, 相去幾何? 善之與惡, 相去若何? 人之所畏, 不可不畏. 荒兮其未央哉!
眾人熙熙, 如享太牢, 如春登臺; 我獨泊兮其未兆, 如嬰兒之未孩, 儽儽兮若無所歸. 眾人皆有餘, 而我獨若遺; 我愚人之心也哉, 沌沌兮! 俗人昭昭, 我獨昏昏; 俗人察察, 我獨悶悶, 澹兮其若海, 飂兮若無止. 眾人皆有以, 而我獨頑且鄙. 我獨異於人, 而貴食母.
*
Tuyệt
học vô ưu. Duy chi dữ a, tương khứ kỉ hà? Thiện chi dữ ác, tương khứ
nhược hà? Nhân chi sở úy, bất khả bất úy. Hoang hề kì vị ương tai!
Chúng
nhân hi hi, như hưởng thái lao, như xuân đăng đài; ngã độc bạc hề kì vị
triệu; như anh nhi chi vị hài; luy luy hề nhược vô sở qui. Chúng nhân
giai hữu dư, nhi ngã độc nhược di; ngã ngu nhân chi tâm dã tai, độn độn
hề! Tục nhân chiêu chiêu, ngã độc hôn hôn; tục nhân sát sát, ngã độc
muộn muộn, đạm hề kì nhược hải, liêu hề nhược vô chỉ. Chúng nhân giai
hữu dĩ, nhi ngã độc ngoan thả bỉ. Ngã độc dị ư nhân, nhi quí thực mẫu.
*
Dứt
học thì không lo. Dạ (giọng kính trọng) với ơi (giọng coi thường) khác
nhau bao nhiêu? Thiện với ác khác nhau thế nào? Cái người ta sợ, ta
không thể không sợ. Rộng lớn thay, không sao hết được!
Mọi
người hớn hở như hưởng bữa tiệc lớn, như mùa xuân lên đài; riêng ta
điềm tĩnh, không lộ chút tình ý gì như đứa trẻ mới sinh, chưa biết cười;
rũ rượi mà đi như không có nhà để về.
Mọi người đều có thừa, riêng ta như thiếu thốn; lòng ta ngu muội, đần độn thay!
Người
đời sáng rõ, riêng ta tối tăm; người đời trong trẻo, riêng ta hỗn độn,
như sóng biển nhấp nhô, như gió vèo vèo không ngừng.
Mọi người đều có chỗ dùng, riêng ta ngoan cố mà bỉ lậu. Riêng ta khác người, mà quí mẹ nuôi muôn loài (tức đạo).
21
*
孔德之容, 惟道是從.
道之爲物, 惟恍惟惚; 惚兮恍兮, 其中有象; 恍兮惚兮, 其中有物. 窈兮冥兮, 其中有精; 其精甚眞, 其中有信.
自古及今, 其名不去, 以閱眾甫. 吾何以知眾甫之狀哉? 以此.
*
Khổng đức chi dung, duy đạo thị tòng.
Đạo
chi vi vật, duy hoảng duy hốt; hốt hề hoảng hề, kì trung hữu tượng;
hoảng hề hốt hề, kì trung hữu vật. Yểu hề minh hề, kì trung hữu tinh; kì
tinh thậm chân, kì trung hữu tín.
Tự cổ cập kim, kì danh bất khứ, dĩ duyệt chúng phủ. Ngô hà dĩ tri chúng phủ chi trạng tai. Dĩ thử.
*
Những biểu hiện của đức lớn đều tùy theo đạo (vì đạo là bản thể của đức, đức là tác dụng của đạo).
Đạo
là cái gì chỉ mập mờ, thấp thoáng; thấp thoáng mập mờ mà bên trong có
hình tượng; mập mờ, thấp thoáng mà bên trong có vật; nó thâm viễn, tối
tăm mà bên trong có cái tinh túy; tinh túy đó rất xác thực, và rất đáng
tin.
Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo vạn vật. Chúng ta do đâu mà biết được bản nguyên của vạn vật? Do cái đó (tức đạo).
22
*
曲則全, 枉則直, 窪則盈, 敝則新, 少則得, 多則惑.
是以聖人抱一爲天下式. 不自見故明不自是故彰; 不自伐, 故有功; 不自矜故長. 夫唯不爭故天下莫能與之爭. 古之所謂曲則全者, 豈虛言哉! 誠全而歸之.
*
Khúc tắc toàn, uổng tắc trực, oa tắc doanh, tệ tắc tân, thiểu tắc đắc, đa tắc hoặc.
Thị
dĩ thánh nhân bão nhất vi thiên hạ thức. Bất tự hiện cố minh bất tự thị
cố chương; bất tự phạt, cố hữu công; bất tự căng cố trướng (hoặc
trưởng). Phù duy bất tranh cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh. Cổ chi sở
vị khúc tắc toàn giả, khởi hư ngôn tai! Thành toàn nhi qui chi.
*
Cong
[chịu khuất] thì sẽ được bảo toàn, queo thì sẽ thẳng ra, trũng thì sẽ
đầy, cũ nát thì sẽ mới, ít thì sẽ được thêm, nhiều thì sẽ hóa mê.
Vì
vậy mà thánh nhân [thánh ở đây hiểu theo quan niệm của Lão] ôm giữ lấy
đạo [nhất đây là đạo] làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho
nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải cho nên mới chói lọi, không tự kể
công cho nên mới có công, không tự phụ cho nên mới trường cửu [hoặc hơn
người]. Chỉ vì không tranh với ai cho nên không ai tranh giành với mình
được.
Người xưa bảo: “Cong thì sẽ được bảo toàn”, đâu phải hư ngôn! Nên chân thành giữ vẹn cái đạo mà về với nó.
23
*
*
希言自然.
故飄風不終朝, 驟雨不終日. 孰爲此者? 天地. 天地尚不能久, 而況於人乎?
故從事於道者, 同於道; 德者, 同於德; 失者, 同於失. 同於道者, 道亦樂得之; 同於德者, 德亦樂得之; 同於失者, 失亦樂得之.
信不足焉, 有不信焉.
*
Hi ngôn tự nhiên.
Cố
phiêu phong bất chung triêu, sậu vũ bất chung nhật. Thục vi thử giả?
Thiên địa. Thiên địa thượng bất năng cửu, nhi huống ư nhân hồ?
Cố
tòng sự ư đạo giả, đồng ư đạo; đức giả, đồng ư đức; thất giả, đồng ư
thất. Đồng ư đạo giả, đạo diệc lạc đắc chi; đồng ư đức giả, đức diệc lạc
đắc chi; đồng ư thất giả, thất diệc lạc đắc chi.
Tín bất túc yên, hữu bất tín yên.
*
Ít nói thì hợp với tự nhiên (với đạo).
Cho
nên gió lốc không hết buổi sáng, mưa rào không suốt ngày. Ai làm nên
những cái ấy? Trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là
người?
Cho
nên theo đạo thì sẽ hòa đồng với đạo; theo đức thì sẽ hòa đồng với đức;
theo sự mất đạo mất đức thì sẽ là một với “mất”. Hòa đồng với đạo thì
sẽ vui được đạo; hòa đồng với đức thì sẽ vui được đức; là một với “mất”
thì sẽ vui với “mất”.
Vua không đủ thành tín thì dân không tin.
企者不立, 跨者不行. 自見者不明, 自是者不彰, 自伐者不功, 自誇者不長. 其於道也曰: 餘食贅行, 物或惡之, 故有道者不處.
*
Xí
giả bất lập, khoá giả bất hành. Tự hiện giả bất minh, tự thị giả bất
chương, tự phạt giả bất công, tự khoa giả bất trường. Kì ư đạo dã viết:
dư thực chuế hành, vật hoặc ố chi, cố hữu đạo giả bất xử.
*
Kẻ
kiểng chân không đứng được (vững), kẻ xoạc cẳng không đi được (lâu), kẻ
tự biểu hiện thì không sáng tỏ, kẻ tự cho là phải thì không chói lọi,
kẻ tự kể công thì không có công, kẻ tự phụ thì không trường cửu. Đối với
đạo thì những thái độ đó là “những đồ ăn thừa, những cục bướu, ai cũng
ghét”. Cho nên kẻ theo đạo không làm như vậy.
*
25
*
有物混成, 先天地生. 寂兮, 寥兮, 獨立而不改, 周行而不殆, 可以爲天地母. 吾不知其名, 字之曰道, 强爲之名曰大.
大曰逝, 逝曰遠, 遠曰反. 故道大, 天大, 地大, 人亦大. 域中有四大, 而人居其一焉. 人法地, 地法天, 天法道, 道法自然.
*
Hữu
vật hỗn thành, tiên thiên địa sinh. Tịch hề, liêu hề, độc lập nhi bất
cải, chu hành nhi bất đãi, khả dĩ vi thiên địa mẫu. Ngô bất tri kì danh,
tự chi viết đạo, cưỡng vị chi danh viết đại.
Đại
viết thệ, thệ viết viễn, viễn viết phản. Cố đạo đại, thiên đại, địa
đại, nhân diệc đại. Vực trung hữu tứ đại, nhi nhân cư kì nhất yên. Nhân
pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên.
*
Có
một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng (vô thanh)
trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất
biến), vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn
vật trong thiên hạ. Ta không biết nó là gì, tạm đặt tên nó là đạo, miễn
cưỡng gọi nó là lớn (vô cùng).
Lớn
(vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì đi xa,
đi xa thì trở về (qui căn). Cho nên đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người
cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà người là một. Người bắt chước
đất, đất bắt chước trời, trời bắt chước đạo, đạo bắt chước tự nhiên.
26
*
重爲輕根, 靜爲躁君. 是以聖人終日行不離輜重. 雖有榮觀, 燕處超然.
奈何萬乘之主, 而以身輕天下? 輕則失根, 躁則失君.
*
Trọng vi khinh căn, tĩnh vi táo quân. Thị dĩ thánh nhân chung nhật hành bất li tri trọng. Tuy hữu vinh quan, yến xử siêu nhiên.
Nại hà vạn thặng chi chủ, nhi dĩ thân khinh thiên hạ? Khinh tắc thất căn, táo tắc thất quân.
*
Nặng
là gốc rễ của nhẹ, tĩnh là chủ của náo động. Cho nên thánh nhân (tức
vua) suốt ngày đi không lìa xe chở đồ dùng (nặng) tuy được sự sang đẹp
mà lòng nhàn tĩnh vượt lên cả (coi thường ngoại vật).
Ông vua một nước có vạn cỗ xe (một nước lớn) sao lại có thể lấy thân coi nhẹ thiên hạ? Nhẹ thì mất gốc rễ, náo động thì mất chủ.
27
*
善行無轍跡, 善言無瑕謫, 善數不用籌策, 善閉無關楗而不可開, 善結無繩約而不可解.
是以聖人常善救人, 故無棄人; 常善救物, 故無棄物. 是謂襲明.
故善人者, 不善人之師; 不善人者, 善人之資. 不貴其師, 不愛其資, 雖智大迷. 是謂要妙.
Thiện
hành vô triệt tích, thiện ngôn vô hà trích, thiện số bất dụng trù sách,
thiện bế vô quan kiện nhi bất khả khai, thiện kết vô thằng ước nhi bất
khả giải.
Thị dĩ thánh nhân thường thiện cứu nhân, cố vô khí nhân; thường thiện cứu vật, cố vô khí vật, thị vị tập minh.
Cố
thiện nhân giả, bất thiện nhân chi sư; bất thiện nhân giả, thiện nhân
chi tư. Bất quí kì sư, bất ái kì tư, tuy trí đại mê. Thị vị yếu diệu.
*
Khéo
đi thì không để lại dấu xe, vết chân; khéo nói thì không có lỗi lầm;
khéo tính thì không dùng thẻ; khéo đóng thì không dùng then, róng mà mở
không được; khéo buộc thì không dùng dây mà cởi không được.
Cho
nên thánh nhân giỏi cứu người mà không ai bị bỏ; giỏi cứu vật mà không
vật nào bị bỏ. Như vậy là sáng lòng [đức của mình và của người và vật
cùng nhau sáng tỏ].
Cho
nên người thiện [người đắc đạo] là thầy của người không thiện [người
không đắc đạo, người thường]; người không thiện là của dùng để người
thiện mượn. Không trọng thầy, không yêu của dùng thì dù cho khôn cũng là
lầm lẫn lớn. Thế gọi là cốt yếu, nhiệm màu.
28
*
知其雄, 守其雌, 爲天下谿; 爲天下谿, 常德不離, 復歸於嬰兒.
知其白, 守其黑, 爲天下式; 爲天下式, 常德不忒, 復歸於無極.
知其榮, 守其辱, 爲天下谷; 爲天下谷, 常德乃足, 復歸於樸. 樸散則爲器, 聖人用之, 則爲官長, 故大制十不割.
*
Tri kì hùng, thủ kì thư, vi thiên hạ khê; vi thiên hạ khê, thường đức bất li, phục qui ư anh nhi.
Tri kì bạch, thủ kì hắc, vi thiên hạ thức; vi thiên hạ thức, thường đức bất thắc, phục qui ư vô cực.
Tri
kì vinh, thủ kì nhục, vi thiên hạ cốc; vi thiên hạ cốc, thường đức nãi
túc, phục qui ư phác. Phác tán tắc vi khí, thánh nhân dụng chi, tắc vi
quan trưởng, cố đại chế thập bất cát.
*
Biết
trống (nam tính), giữ mái (nữ tính), làm khe nước cho thiên hạ, làm khe
nước cho thiên hạ, thì cái đức vĩnh cửu bất biến sẽ không mất mà trở về
trẻ thơ (hồn nhiên).
Biết
trắng, giữ đen, làm phép tắc cho thiên hạ; làm phép tắc cho thiên hạ
thì cái đức vĩnh cửu bất biến sẽ không sai lạc, mà trở về với vô cực
(bản thể của đạo).
Biết
vinh, giữ nhục, làm cái hay cho thiên hạ; làm cái hay cho thiên hạ thì
cái đức vĩnh cửu bất biến sẽ đầy đủ, mà trở về mộc mạc như gỗ chưa đẽo.
Gỗ chưa đẽo, xẻ ra thành đồ dùng; thánh nhân giữ thuần phác mà điều
khiển trăm quan, cho nên người giỏi trị nước không chia cắt chi li.
29
*
將欲取天下而爲之, 吾見其不得已. 天下神器, 不可爲也, 不可執也. 爲者敗之, 執者 失之.
故物或行或隨, 或歔或吹,或强或羸, 或挫或隳. 是以聖人去甚, 去奢, 去泰.
*
Tương
dục thủ thiên hạ nhi vi chi, ngô kiến kì bất đắc dĩ. Thiên hạ thần khí,
bất khả vi dã, bất khả chấp dã. Vi giả bại chi, chấp giả thất chi.
Cố vật hoặc hành hoặc tuỳ, hoặc hư hoặc xuy, hoặc cường hoặc luy, hoặc toả hoặc huy. Thị dĩ thánh nhân khứ thậm, khứ xa, khứ thái.
*
Muốn
trị thiên hạ mà hữu vi thì ta biết là không thể được rồi. Thiên hạ là
một đồ vật thần diệu, không thể hữu vi, không thể cố chấp được. Hữu vi
thì làm cho thiên hạ hỏng, cố chấp thì mất thiên hạ.
Sinh
vật (người) hoặc đi trước (tích cực) hoặc đi theo (tiêu cực), hoặc hà
hơi (cho ấm) hoặc thở (cho nguội), hoặc mạnh hoặc yếu, hoặc an hoặc
nguy. Cho nên thánh nhân bỏ những cái gì thái quá.
30
*
*
以道佐人主者, 不以兵强天下. 其事好還. 師之所處, 荊棘生焉. 大軍之後, 必有凶年. 善者果而已, 不敢以取强. 果而勿矜, 果而勿伐, 果而勿驕, 果而不得已, 果而勿强.
物壯則老, 是謂不道, 不道早已.
*
Dĩ
đạo tá nhân chủ giả, bất dĩ binh cường thiên hạ. Kì sự hảo hoàn. Sư chi
sở xử, kinh cức sanh yên. Đại quân chi hậu, tất hữu hung niên. Thiện
giả quả nhi dĩ, bất cảm dĩ thủ cường. Quả nhi vật căng, quả nhi vật
phạt, quả nhi vật kiêu, quả nhi bất đắc dĩ, quả nhi vật cường.
Vật tráng tắc lão, thị vị bất đạo, bất đạo tảo dĩ.
*
Người
giữ đạo mà phò vua thì không dùng binh lực để mạnh hơn thiên hạ. Vì
việc như vậy thường hay quay ngược trở lại [hiếu chiến thì lại chết vì
chiến tranh].
Quân đội đóng ở đâu, gai góc mọc ở đấy. Sau trận chiến tranh lớn, tất bị mất mùa.
Người
khéo dùng binh hễ có hiệu quả, đạt được mục đích thì thôi, không dám ỷ
mạnh hơn thiên hạ. Đạt được mục đích mà không tự phụ, đạt được mục đích
mà không khoe công, đạt được mục đích mà không kiêu căng, đạt được mục
đích mà bất đắc dĩ, đạt được mục đích mà không lấy làm mạnh.
Vật gì cũng vậy, cường tráng rồi thì sẽ già, như vậy cường tráng là không hợp với đạo. Không hợp đạo thì sớm chết.
*
31
Việc
lành thì trọng bên trái, việc dữ thì trong bên phải. Phó tướng ở bên
trái, thượng tướng ở bên phải, như vậy có nghĩa là coi việc dùng binh
như một tang lễ. Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc;
chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử.
*
夫佳兵者, 不祥之器. 物或惡之, 故有道者不處. 君子居則貴左, 用兵則貴右.
兵者不祥之器, 非君子之器, 不得已而用之, 恬淡爲上. 勝而不美, 而美之者, 是樂殺人. 夫樂殺人者, 則得志於天下矣.
吉事尚左, 凶事尚右. 偏將軍居左, 上將軍居右, 言以喪禮處之. 殺人之眾, 以悲哀泣之, 戰勝以喪禮處之.
*
Phù giai binh giả, bất tường chi khí. Vật hoặc ố chi, cố hữu đạo giả bất xử. Quân tử cư tắc quí tả, dụng binh tắc quí hữu;
[Binh
giả bất tường chi khí, phi quân tử chi khí, bất đắc dĩ nhi dụng chi,
điềm đạm vi thượng. Thắng nhi bất mĩ, nhi mĩ chi giả, thị lạc sát nhân.
Phù lạc sát nhân giả, tắc bất khả đắc chí ư thiên hạ hĩ].
Cát
sự thượng tả, hung sự thượng hữu. Thiên tướng quân cư tả, thượng tướng
quân cư hữu, ngôn dĩ tang lễ xử chi. Sát nhân chi chúng, dĩ bi ai khấp
chi, chiến thắng dĩ tang lễ xử chi.
*
Vì
binh khí là vật bất tường (chẳng lành, gây họa), ai cũng ghét cho nên
người giữ đạo không thích dùng nó. Người quân tử ở nhà thì trọng bên
trái, khi dùng binh thì trọng bên phải.
[Binh
khí là vật bất tường, không phải là của người quân tử, cho nên bất đắc
dĩ phải dùng nó, mà dùng đến thì điềm đạm (bình tĩnh, giữ được hòa khí,
tránh cực đoan) là hơn cả. Thắng cũng không cho là hay, nếu cho là hay
tức là thích giết người. Kẻ nào thích giết người thì không thực hiện
được lí tưởng trị thiên hạ].
*
32
46
道常無名, 樸, 雖小, 天下莫能臣也. 王侯若能守之, 萬物將自賓.
天地相合, 以降甘露, 民莫之令而自均. 始制有名, 名亦既有, 夫亦將知止. 知所止所以不殆.
譬道之在天下, 猶川谷之與江海.
*
Đạo thường vô danh, phác,tuy tiểu, thiên hạ mạc năng thần dã. Vương hầu nhược năng thủ chi, vạn vật tương tự tân.
Thiên
địa tương hợp, dĩ giáng cam lộ, dân mạc chi linh nhi tự quân. Thủy chế
hữu danh, danh diệc kí hữu, phù diệc tương tri chỉ. Tri sở chỉ khả dĩ
bất đãi.
Thí đạo chi tại thiên hạ, do xuyên cố chi dữ giang hải.
*
Đạo
vĩnh viễn không có tên, chất phác, tuy ẩn vi mà thiên hạ không ai coi
thường nó được [coi nó như bề tôi được]. Các bậc vương hầu biết giữ nó,
thì vạn vật sẽ tự động qui phục.
Trời đất hòa hợp với nhau cho móc ngọt rơi xuống, nhân dân không ra lệnh cho móc ngọt mà tự nó điều hòa.
Đạo
sáng tạo vật rồi vạn vật mới có danh phận, khi đã có danh phận rồi thì
nên biết ngừng lại; vì biết ngừng lại cho nên mới không nguy.
Đạo đối với thiên hạ cũng giống như sông biển đối với suối khe.
*
33
45
知人者智, 自知者明. 勝人者力, 自勝者强.
知足者富, 强行者有志. 不失其所者久, 死而不亡者壽.
*
Tri nhân giả trí, tự tri giả minh. Thắng nhân giả lực, tự thắng giả cường.
Tri túc giả phú, cường [hoặc cưỡng] hành giả hữu chí. Bất thất kì sở giả cửu, tử nhi bất vong giả thọ.
*
Kẻ biết người là người khôn, kẻ tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường.
Kẻ
tri túc (biết thế nào là đủ) là người giàu; kẻ mạnh mẽ [hoặc gắng sức]
làm là người có chí. Không rời nơi chốn của mình [tức đạo] thì được lâu
dài; chết mà không mất [đạo] là trường thọ.
*
34
36
大道氾兮, 其可左右. 萬物恃之而生而不辭, 功成而不有. 衣養萬物而不主. 常無欲, 可名於小; 萬物歸焉而不主, 可名爲大. 以其終不自爲大, 故能成其大.
*
Đại
đạo phiếm hề, kì khả tả hữu. Vạn vật thị chi nhi sinh nhi bất từ, công
thành nhi bất hữu, y dưỡng vạn vật nhi bất chủ. Thường vô dục, khả danh ư
tiểu; vạn vật qui yên nhi bất chủ, khả danh vi đại. Dĩ kì chung bất tự vi đại, cố năng thành kì đại.
*
Đạo
lớn lan tràn khắp có thể qua bên trái, qua bên phải. Vạn vật nhờ nó mà
sinh trưởng mà nó không can thiệp vào, công thành rồi mà không nhận là
của mình; nó nuôi dưỡng vạn vật mà không làm chủ vạn vật. Nó vĩnh viễn
là “không”, vô vi, cho nên có thể bảo nó là ẩn vi, [vô hình]; muôn vật
qui về nó mà nó không làm chủ, cho nên có thể bảo nó là lớn. Vì cho tới
cùng, nó không tự nhận nó là lớn cho nên mới hoàn thành được cái vĩ đại
của nó.
*
執大象, 天下往. 往而不害, 安平太.
樂與餌, 過客止. 道之出口, 淡乎其無味, 視之不足見, 聽之不足聞, 用之不足既.
*
Chấp đại tượng, thiên hạ vãng. Vãng nhi bất hại, an bình thái.
Nhạc dữ nhị, quá khách chỉ. Đạo chi xuất khẩu, đạm hồ kì vô vị, thị chi bất túc kiến, thính chi bất túc văn,dụng chi bất túc kí.
*
[Bậc vua chúa] giữ đạo lớn thì thiên hạ tới qui phục; qui phục mà không hại, được an lạc thái bình.
Âm
nhạc với mĩ vị làm cho khách qua đường ngừng lại; còn đạo mà nói ra thì
nó nhạt nhẽo, vô vị; nhìn kĩ nó không thấy, lắng nghe cũng không thấy,
nhưng dùng nó thì không bao giờ hết.
*
將欲歙之, 必固張之. 將欲弱之. 必固强之. 將欲廢之, 必固舉之. 將欲奪之, 必固與之. 是謂微明. 柔弱勝剛强.
魚不可脫於淵, 國之利器不可以示人.
*
Tương
dục hấp chi, tất cố trương chi. Tương dục nhược chi, tất cố cường chi.
Tương dục phế chi, tất cố cử chi. Tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi. Thị
vị vi minh. Nhu nhược thắng cương cường.
Ngư bất khả thoát ư uyên; quốc chi lợi khí bất khả dĩ thị nhân.
*
Muốn
cho vật gì thu rút lại thì tất hãy mở rộng nó ra đã. Muốn cho ai yếu đi
thì tất hãy làm cho họ mạnh lên đã. Muốn phế bỏ ai thì tất hãy đề cử họ
lên đã. Muốn cướp lấy vật gì thì tất hãy cho đã. [Hiểu] như vậy là sâu
kín mà sáng suốt. Vì nhu nhược thắng được cương cường.
Cá không nên rời khỏi vực. Lợi khí của nước không nên khoe cho dân thấy.
*
37
39
42
43
道常無爲而無不爲, 侯王若能守之, 萬物將自化. 化而欲作, 吾將鎭之以無名之樸. (無名之樸). 夫亦將無欲. 不欲以靜, 天下將自定.
*
Đạo
thường vô vi nhi vô bất vi, hầu vương nhược năng thủ chi, vạn vật tương
tự hóa. Hóa nhi dục tác, ngô tương trấn chi dĩ vô danh chi phác. (Vô
danh chi phác). Phù diệc tương vô dục. Bất dục dĩ tĩnh, thiên hạ tương
tự định.
*
Đạo
vĩnh cửu thì không làm gì (vô vi - vì là tự nhiên) mà không gì không
làm (vô bất vi - vì vạn vật nhờ nó mà sinh, mà lớn); bậc vua chúa giữ
được đạo thì vạn vật sẽ tự biến hóa (sinh, lớn). Trong quá trình biến
hóa, tư dục của chúng phát ra thì ta dùng cái mộc mạc vô danh (tức bản
chất của đạo) mà trấn áp hiện tượng đó, khiến cho vạn vật không còn tư
dục nữa. Không còn tư dục mà trầm tĩnh thì thiên hạ sẽ tự ổn định.
*
THIÊN HẠ
上德不德, 是以有德; 下德不失德, 是以無德.
上德無爲而無以爲; 下德無爲而有以爲.
故失道而後德, 失德而後仁, 失仁而後義, 失義而後禮. 夫禮者, 忠信之薄, 而亂之首. 前識者道之華, 而愚之始. 是以大丈夫處其厚, 不居其薄, 處其實, 不居其華. 故去彼取此.
*
Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức; hạ đức bất thất đức, thị dĩ vô đức.
Thượng đức vô vi nhi vô dĩ vi; hạ đức vô vi nhi hữu dĩ vi.
Thượng
nhân vi chi nhi vô dĩ vi; thượng nghĩa vi chi nhi hữu dĩ vi. Thượng lễ
vi chi nhi mạc chi ứng, tắc nhương tí nhi nhưng chi.
Cố
thất đạo nhi hậu đức, thất đức nhi hậu nhân, thất nhân nhi hậu nghĩa,
thất nghĩa nhi hậu lễ. Phù lễ giả, trung tín chi bạc, nhi loạn chi thủ.
Tiền thức giả đạo chi hoa, nhi ngu chi thủy. Thị dĩ đại trượng phu xử kì
hậu, bất cư kì bạc, xử kì thực, bất cư kì hoa. Cố khứ bỉ thủ thử.
*
Người
có đức cao thì [thuận theo tự nhiên] không có ý cầu đức, cho nên có
đức; người có đức thấp thì có ý cầu đức, cho nên không có đức.
Người
có đức cao thì vô vi [không làm] mà không có ý làm [nghĩa là không cố ý
vội vì cứ thuận theo tự nhiên]; người có đức thấp cũng vô vi, mà có ý
làm [nghĩa là cố ý vô vi].
Người
có đức nhân cao thì [do lòng thành mà] làm điều nhân, chứ không có ý
làm [không nhắm một mục đích gì]; người có lòng nghĩa cao thì làm điều
nghĩa mà có ý làm [vì so sánh điều nên làm - điều nghĩa - với điều không
nên làm]; người có đức lễ cao thì giữ lễ nghi, và nếu không được đáp
lại thì đưa cánh tay ra kéo người ta bắt phải giữ lễ nghi như mình. Cho
nên đạo mất rồi sau mới có đức (đức ở đây hiểu theo nghĩa nguyên lí của
mỗi vật), đức mất rồi sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa,
nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là biểu hiện sự suy vi của sự trung hậu
thành tín, là đầu mối của sự hỗn loạn. Dùng trí tuệ để tính toán trước,
thì [mất cái chất phác] chỉ là cái lòe loẹt [cái hoa] của đạo, mà là
nguồn gốc của ngu muội. Cho nên bậc đại trượng phu [người hiểu đạo] giữ
trung hậu thành tín mà không trọng lễ nghi, giữ đạo mà không dùng trí
xảo, bỏ cái này mà giữ cái kia.
*
昔之得一者: 天得一以清, 地得一以寧, 神得一以靈, 谷得一以盈, 萬物得一以生, 侯王得一以爲天下貞. 其致之.
天無以清將恐裂, 地無以寧將恐廢, 神無以靈將恐歇, 谷無以盈將恐竭, 萬物無以生將恐滅, 侯王無以貴高將恐蹶.
故貴以賤爲本, 高以下爲基. 是以侯王自謂孤, 寡, 不穀. 此非以賤爲本邪? 非歟? 故至譽無譽, 不欲琭琭如玉, 珞珞如石.
*
Tích
chi đắc nhất giả: thiên đắc nhất dĩ thanh, địa đắc nhất dĩ ninh, thần
đắc nhất dĩ linh, cốc đắc nhất dĩ doanh, vạn vật đắc nhất dĩ sinh, hầu
vương đắc nhất dĩ vi thiên hạ trinh. Kì trí chi.
Thiên vô dĩ thanh tương khủng liệt, địa vô dĩ ninh tương khủng phế, thần vô dĩ linh tương khủng yết, cốc vô dĩ doanh tương khủng kiệt, vạn vật vô dĩ sinh tương khủng diệt, hầu vương vô dĩ quí cao tương khủng quyết.
Cố
quí dĩ tiện vi bản, cao dĩ hạ vi cơ. Thị dĩ hầu vương tự vị cô, quả,
bất cốc. Thử phi dĩ tiện vi bản dả? Phi dư? Cố trí dự vô dự, bất dục lục
lục như ngọc, lạc lạc như thạch.
*
Đây
là những vật xưa kia được đạo: trời được đạo mà trong, đất được đạo mà
yên, thần được đạo mà linh, khe ngòi được đạo mà đầy, vạn vật được đạo
mà sinh, vua chúa được đạo mà làm chuẩn tắc cho thiên hạ. Những cái đó
đều nhờ đạo mà được vậy.
Nếu
trời không trong thì sẽ vỡ, đất không yên thì sẽ lở, thần không linh sẽ
tan mất, khe ngòi không đầy thì sẽ cạn, vạn vật không sinh thì sẽ diệt,
vua chúa không cao quí thì sẽ mất ngôi.
Sang
lấy hèn làm gốc, cao lấy thấp làm nền. Cho nên vua chúa mới tự xưng là
“côi cút” (cô), “ít đức” (quả), “không tốt” (bất cốc) [đều là những lời
khiêm tốn]. Như vậy, chẳng phải là lấy hèn làm gốc đấy ư? Không phải vậy
chăng? Cho nên không được khen tức là được lời khen cao quí nhất.
Không muốn được quí như ngọc, bị khi như sỏi.
*
40
反者道之動, 弱者道之用. 天下萬物生於有, 有生於無.
*
Phản giả đạo chi động, nhược giả đạo chi dụng. Thiên địa vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô.
*
Luật vận hành của đạo là trở lại lúc đầu [trở lại gốc], diệu dụng của đạo là khiêm nhu.
Vạn vật trong thiên hạ từ “có” mà sinh ra; “có” lại từ “không” mà sinh ra.
上士聞道, 勤而行之; 中士聞道, 若存若亡; 下士聞道, 大笑之. 不笑, 不足以爲道.
故建言有之: 明道若昧, 進道若退, 夷道若纇; 上德若谷, 大白若辱, 廣德若不足, 建德若偷, 質德若渝.
大方無隅, 大器晚成, 大音希聲; 大象無形, 道隱無名. 夫唯道, 善貸且成.
*
Thượng sĩ văn đạo, cần nhi hành chi; trung sĩ văn đạo, nhược tồn nhược vong; hạ sĩ văn đạo, đại tiếu chi. Bất tiếu, bất túc dĩ vi đạo.
Cố kiến ngôn hữu chi: minh đạo nhược muội,tiến đạo nhược thối, di đạo nhược loại; thượng đức nhược cốc, đại bạch nhược nhục, quảng đức nhược bất túc, kiến đức nhược thâu; chất đức nhược du.
Đại phương vô ngung, đại khí vãn thành, đại âm hi thanh; đại tượng vô hình, đạo ẩn vô danh. Phù duy đạo, thiện thải thả thành.
*
Bậc
thượng sĩ [sáng suốt] nghe đạo [hiểu được] thì gắng sức thi hành; kẻ
tầm thường nghe đạo thì nửa tin nửa ngờ; kẻ tối tăm nghe đạo [cho là
hoang đường] thì cười rộ. Nếu không cười thì đạo đâu còn là đạo nữa.
Cho
nên sách xưa có nói: đạo sáng thì dường như tối tăm, đạo tiến thì dường
như thụt lùi, đạo bằng phẳng dễ dàng thì dường như khúc mắc; đức cao
thì dường như thấp trũng; cao khiết thì dường như nhục nhã [hoặc thật
trong trắng thì dường như nhơ bẩn], đức rộng lớn thì dường như không đủ,
đức mạnh mẽ thì dường như biếng nhác, đức chất phác thì dường như không
hư [có người dịch là hay thay đổi].
Hình
vuông cực lớn thì không có góc [nói về không gian, nó không có góc vì
không biết góc nó đâu]; cái khí cụ cực lớn [đạo] thì không có hình trạng
cố định; thanh âm cực lớn thì nghe không thấy, hình tượng cực lớn thì
trông không thấy, đạo lớn thì ẩn vi, không thể giảng được [không gọi tên
được]. Chỉ có đạo là khéo sinh và tác thành vạn vật.
*
道生一, 一生二, 二生三, 三生萬物. 萬物負陰而抱陽, 中氣以爲和.
人之所惡, 唯孤, 寡, 不穀. 而王公以爲稱. 故, 物或損之而益, 或益之而損.
人之所敎, 我亦敎之, 梁强者不得其死, 吾將以爲敎父.
*
Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sanh tam, tam sinh vạn vật. Vạn vật phụ âm nhi bão dương, trùng khí dĩ vi hòa.
Nhân chi sở ố, duy “cô”, “quả”, “bất cốc”. Nhi vương công dĩ vi xưng. Cố, vật hoặc tổn chi nhi ích, hoặc ích chi nhi tổn.
Nhân chi sở giáo, ngã diệc giáo chi, lương cường giả bất đắc kì tử, ngô tương dĩ vi giáo phụ.
*
Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh vạn vật. Vạn vật đều cõng âm mà ôm dương, điều hòa bằng khí trùng hư.
Điều
mà, mọi người ghét là “côi cút”, “ít đức”, “không tốt”, vậy mà các
vương công dùng những tiếng đó để tự xưng. Cho nên vật có khi bớt đi mà
lại là thêm lên, có khi thêm lên mà hóa ra bớt đi.
Có
một lời mà người xưa dạy, nay tôi cũng dùng để dạy lại, là “cường bạo
thì sẽ bất đắc kì tử”. Tôi cho lời đó là lời khuyên chủ yếu.
*
天下之至柔馳騁天下之至堅. 無有入無間. 吾是以知無爲之有益. 不言之敎, 無爲之益, 天下希及之.
*
Thiên
hạ chi chí nhu trì sính thiên hạ chi chí kiên. Vô hữu nhập vô gian. Ngô
thị dĩ tri vô vi chi hữu ích. Bất ngôn chi giáo, vô vi chi ích, thiên
hạ hi cập chi.
*
Trong
thiên hạ, cái cực mềm thì chế ngự được cái cực cứng [như nước xoi mòn
được đá]; cái “không có” lại len vô được không có kẽ hở [như không khí
len vô được những chất đá, gỗ cứng mà trông bề ngoài ta không thấy kẽ
hở].
Do đó mà tôi biết “vô vi” là có ích. Dạy mà không dùng lời, cái ích lợi của vô vi, người đời ít ai hiểu kịp.
名與身孰親? 身與貨孰多? 得與亡孰病? 是故甚愛必大費, 多藏必厚亡.
知足不辱, 知止不殆, 可以長久.
*
Danh dữ thân thục thân? Thân dữ hóa thục đa? Đắc dữ vong thục bệnh? Thị cố thậm ái tất đại phí, đa tàng tất hậu vong.
Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi, khả dĩ trường cửu.
*
Danh tiếng với sinh mệnh cái nào quí? Sinh mệnh với của cải cái nào quan trọng?
Được
danh lợi mà mất sinh mệnh, cái nào hại? Cho nên ham danh quá thì phải
hao tổn nhiều, chứa của cải nhiều thì mất mát nhiều. Biết thế nào là đủ
(tri túc) thì không nhục, biết lúc nào nên ngừng thì không nguy mà có
thể sống lâu được.
*
大成若缺, 其用不弊; 大盈若沖, 其用不窮; 大直若屈, 大巧若拙, 大辯若訥.
靜勝躁, 寒勝熱, 清靜爲天下正.
*
Đại
thành nhược khuyết, kì dụng bất tệ; đại doanh nhược xung, kì dụng bất
cùng; đại trực nhược khuất, đại xảo nhược chuyết, đại biện nhược nột.
Tĩnh thắng táo, hàn thắng nhiệt, thanh tĩnh vi thiên hạ chính.
*
Cái
gì hoàn toàn thì dường như khiếm khuyết mà công dụng lại không bao giờ
hết; cái gì cực đầy thì dường như hư không mà công dụng lại vô cùng; cực
thẳng thì dường như cong, cực khéo thì dường như vụng, ăn nói cực khéo
thì dường như ấp úng.
Tĩnh thắng động, lạnh thắng nóng, thanh tĩnh [vô vi] là chuẩn tắc trong thiên hạ.
*
天下有道, 卻走馬以糞; 天下無道, 戎馬生於郊.
禍莫大於不知足, 咎莫大於欲得. 故知足之足, 常足矣.
*
Thiên hạ hữu đạo, khước tẩu mã dĩ phẩn; thiên hạ vô đạo, nhung mã sinh ư giao.
Họa mạc đại ư bất tri túc, cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ.
*
Thiên
hạ có đạo [các nước không gây chiến với nhau] thì ngựa tốt không dùng
vào chiến tranh mà dùng vào việc cày cấy; thiên hạ vô đạo thì ngựa dùng
vào chiến tranh và ngựa mẹ sinh con ở chiến trường [mà không sinh ở
nhà].
[Do
đó mà xét thì] họa không gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại
không gì bằng tham muốn cho được nhiều [đi chiếm nước ngoài] cho nên
biết thế nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì mới luôn luôn đủ.
不出戶, 知天下, 不窺牖, 見天道. 其出彌遠, 其知彌少. 是以聖人不行而知, 不見而名, 無爲而成.
*
Bất xuất hộ, tri thiên hạ, bất
khuy dũ, kiến thiên đạo. Kì xuất di viễn, kì tri di thiểu. Thị dĩ thánh
nhân bất hành nhi tri; bất kiến nhi danh; bất vi nhi thành.
*
Không
ra khỏi cửa mà biết được [sự lí trong] thiên hạ; không dòm ra ngoài cửa
mà biết được đạo trời. Càng đi xa càng biết được ít. Cho nên thánh nhân
không đi mà biết, không nhìn mà thấy rõ, không làm mà nên.
*
Đại
ý là dùng tâm thần [trực giác] thì mới lĩnh hội được tổng nguyên lí,
chứ đừng dùng tai mắt mà tìm hiểu từng vật một thì chỉ thêm mê hoặc.
爲學日益, 爲道日損. 損之又損, 以至於無爲. 無爲而無不爲. 取天下常以無事, 及其有事, 不足以取天下.
*
Vi
học nhật ích, vi đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi. Vô vi
nhi vô bất vi. Thủ thiên hạ thường dĩ vô sự, cập kì hữu sự, bất túc dĩ
thủ thiên hạ.
*
Theo
học [hiểu theo nghĩa thường] thì mỗi ngày [dục vọng và tinh thần hữu
vi] một tăng; theo đạo thì mỗi ngày [dục vọng và tinh thần hữu vi] một
giảm. Giảm rồi lại giảm cho tới mức vô vi, không làm. Không làm mà không
gì là không làm. Trị thiên hạ thì nên vô vi, còn như hữu vi thì không
trị được thiên hạ.
聖人無常心, 以百姓心爲心. 善者吾善之, 不善者吾亦善之, 德善. 信者吾信之, 不信者吾亦信之, 德信.
聖人在天下, 歙歙焉, 爲天下, 渾其心. 百姓皆注其耳目, 聖人皆孩之.
*
Thánh
nhân vô thường tâm, dĩ bách tính tâm vi tâm. Thiện giả ngô thiện chi,
bất thiện giả ngô diệc thiện chi, đức thiện. Tín giả ngô tín chi, bất
tín giả ngô diệc tín chi, đức tín.
Thánh nhân tại thiên hạ, hấp hấp yên, vi thiên hạ, hồn kì tâm. Bách tính giai chú kì nhĩ mục, thánh nhân giai hài chi.
*
Thánh
nhân không có thành kiến, lấy lòng thiên hạ làm lòng mình. Thánh nhân
tốt với người tốt, tốt cả với những người không tốt, nhờ vậy mà mọi
người đều hoá ra tốt; tin người đáng tin mà tin cả người không đáng tin,
nhờ vậy mà mọi người đều hoá ra đáng tin.
Thánh
nhân ở trong thiên hạ thì vô tư vô dục, trị thiên hạ thì để lòng mình
hồn nhiên. Trăm họ đều chăm chú nghe nhìn thánh nhân, thánh nhân đều coi
họ như con trẻ.
50
66
*
出生入死, 生之徒十有三, 死之徒十有三, 人之生, 動之死地, 亦十有三.
夫何故? 以其生生之厚. 蓋聞善攝生者, 陸行不遇兕虎, 入軍不被兵甲. 兕無所投其角, 虎無所措其爪, 兵無所容其刃. 夫何故? 以其無死地.
*
Xuất sinh nhập tử. Sinh chi đồ thập hữu tam, tử chi đồ thập hữu tam, nhân chi sinh, động chi tử địa, diệc thập hữu tam.
Phù
hà cố? Dĩ kì sinh sinh chi hậu. Cái văn thiện nhiếp sinh giả, lục hành
bất ngộ huỷ hổ, nhập quân bất bị binh giáp. Huỷ vô sở đầu kì giác, hổ vô
sở thố kì trảo; binh vô sở dung kì nhẫn. Phù hà cố? Dĩ kì vô tử địa.
*
Ra [đời] gọi là sống, vô [đất] gọi là chết, cứ 10 người ra đời thì 3 người bẩm sinh được sống lâu, 3 người bẩm sinh chết yểu, 3 người có thể sống lâu được nhưng chết sớm [vì không biết dưỡng sinh].
Như vậy là vì đâu? Vì họ (hạng thứ ba) tự phụng dưỡng quá hậu (hưởng thụ thái quá).
Tôi từng nghe nói người khéo dưỡng sinh thì đi đường không gặp con tê
ngưu, con hổ, ở trong quân đội thì không bị thương vì binh khí. Con tê
ngưu không dùng sừng húc, con hổ không dùng móng vồ, binh khí không đâm
người đó được. Tại sao vậy? Tại người đó [khéo dưỡng sinh] không tiến
vào tử địa.
*
51
道生之, 德畜之, 物形之, 勢成之. 是以萬物莫不尊道而貴德. 道之尊, 德之貴, 夫莫之命而常自然.
故道生之, 德畜之, 長之, 育之, 亭之, 毒之, 養之, 覆之. 生而不有, 爲而不恃, 長而不宰. 是謂玄德.
*
Đạo
sinh chi, đức súc chi, vật hình chi, thế thành chi. Thị dĩ vạn vật mạc
bất tôn đạo nhi quí đức. Đạo chi tôn, đức chi quí, phù mạc chi mệnh nhi
thường tự nhiên.
Cố đạo sinh chi, đức súc chi, truởng chi, dục chi, đình chi, độc chi, dưỡng chi, phú chi. Sinh nhi bất hữu; vi nhi bất thị; trưởng nhi bất tể. Thị vị huyền đức.
*
Đạo
sinh ra vạn vật [vì là tổng nguyên lí], đức bao bọc mỗi vật [vì là
nguyên lí của mỗi vật], vật chất khiến cho mỗi vật hình thành, hoàn cảnh
[khí hậu, thuỷ thổ] hoàn thành mỗi vật. Vì vậy mà vạn vật đều tôn sùng
đạo và quí đức. Đạo sở dĩ được tôn sùng, đức sở dĩ được quí là vì đạo và
đức không can thiệp, chi phối vạn vật mà để vạn vật tự nhiên phát
triển.
*
52
*
天下有始, 以爲天下母. 既得其母. 以知其子, 既知其子, 復守其母, 沒身不殆.
塞其兌, 閉其門, 終身不勤. 開其兌, 濟其事, 終身不救.
見小曰明, 守柔曰强. 用其光, 復歸其明, 無遺身殃. 是爲習常.
*
Thiên hạ hữu thuỷ, dĩ vi thiên hạ mẫu. Kí đắc kì mẫu, dĩ tri kì tử, kí tri kì tử, phúc thủ kì mẫu, một thân bất đãi.
Tắc kì đoài, bế kì môn, chung thân bất cần; khai kì đoài, tế kì sự, chung thân bất cứu.
Kiến tiểu viết minh; thủ nhu viết cường. Dụng kì quang, phục qui kì minh, vô di thân ương. Thị vi tập thường.
*
Vạn
vật có nguồn gốc (đạo), nguồn gốc đó là mẹ của vạn vật. Nắm được mẹ
[hiểu được đạo] là biết con [vạn vật]; đã biết được con mà lại giữ được
mẹ thì suốt đời không nguy.
Ngăn
hết các lối [tai, mắt, mũi, miệng], đóng hết các cửa [tức đừng để cho
cảm quan gây dục vọng, cứ giữ lòng hư tĩnh] thì suốt đời không lo lắng;
mở các đường lối, giúp cho dục vọng phát sinh, thì suốt đời không cứu
được.
Thấy
cái ẩn vi [đạo] thì gọi là sáng, giữ được nhu nhược [đạo] thì gọi là
mạnh. Dùng được ánh sáng [tức biết được vạn vật, được con] mà phục hồi
được sự sáng [tức giữ được mẹ, được đạo] thì không bị tai hoạ. Như vậy
là theo được đạo vĩnh cửu.
53
*
使我介然有知, 行於大道, 惟施是畏. 大道甚夷而民好徑.
朝甚除, 田甚蕪, 倉甚虚; 服文綵, 帶利劍, 厭飮食, 財貨有餘, 是謂盗夸, 非道也哉!
*
Sử ngã giới nhiên hữu tri, hành ư đại đạo, duy thi thị uý. Đại đạo thậm di nhi dân hiếu kính.
Triều thậm trừ, điền thậm vu, sương thậm hư; phục văn thái, đái lợi kiếm, yếm ẩm thực, tài hoá hữu dư, thị vị đạo khoa, phi đạo dã tai!
*
Nếu
ta hốt nhiên hiểu biết thì ta đi theo con đường lớn, chỉ sợ con đường
tà. Đường lớn thật bằng phẳng, mà ta lại thích con đường nhỏ quanh co.
Triều
đình thật ô uế, đồng ruộng thật hoang vu, kho lẫm thật trống rỗng; mà
họ bận áo gấm thêu, đeo kiếm sắc, ăn uống chán mứa, của cải thừa thãi.
Như vậy là trộm cướp chứ đâu phải là hợp đạo!
54
*
善建者不抜, 善抱者不脫. 子孫以祭祀不輟. 修之於身, 其德乃眞; 修之於家, 其德乃餘; 修之於鄕, 其德乃長; 修之於邦, 其德乃豊; 修之於天下, 其德乃普.
故以身觀身, 以家觀家, 以鄕觀鄕, 以邦觀邦, 以天下觀天下. 吾何以知天下然哉? 以此.
*
Thiện
kiến giả bất bạt, thiện bão giả bất thoát. Tử tôn dĩ tế tự bất chuyết.
Tu chi ư thân, kì đức nãi chân; tu chi ư gia, kì đức nãi dư; tu chi ư
hương, kì đức nãi trường; tu chi ư bang, kì đức nãi phong; tu chi ư
thiên hạ, kì đức nãi phổ.
Cố
dĩ thân quan thân, dĩ gia quan gia, dĩ hương quan hương, dĩ bang quan
bang, dĩ thiên hạ quan thiên hạ. Ngô hà dĩ tri thiên hạ nhiên tai? Dĩ
thử.
*
Khéo
dựng thì không thể nhổ lên được, khéo ôm thì không thoát ra được, con
cháu mà khéo dựng, khéo ôm thì việc tế tự [tôn miếu, xã tắc] sẽ đời đời
không dứt. Lấy đạo mà tu thân thì đức sẽ đầy đủ; lấy đạo mà lo việc nhà
thì đức sẽ có dư; lấy đạo mà lo việc làng xóm thì đức sẽ lớn ra; lấy đạo
mà lo việc nước thì đức sẽ thịnh; lấy đạo mà lo việc thiên hạ thì đức
sẽ phổ cập.
Lấy
thân mình mà xét thân người, nhà mình mà xét nhà người, làng mình mà
xét làng khác, nước mình mà xét nước khác, thiên hạ ngày nay mà xét
thiên hạ thời xưa và thời sau. Làm sao ta biết được thiên hạ thế này hay
thế khác? Là do lẽ đó.
55
*
含德之厚, 比於赤子. 毒蟲不螫, 猛獸不據, 攫鳥不搏. 骨弱, 筋柔而握固, 未知牝牡之合而朘作, 精之至也. 終日號而不嗄, 和之至也.
知和曰常, 知常曰明. 益生曰祥. 心使氣曰强. 物壯則老, 是謂不道, 不道早已.
*
Hàm
đức chi hậu, tỉ ư xích tử. Độc trùng bất thích, mãnh thú bất cứ; quắc
điểu bất bác. Cốt nhược, cân nhu nhi ác cố, vị tri tẫn mẫu chi hợp nhi
tôi tác, tinh chi chí dã. Chung nhật hào nhi bất sá, hoà chi chí dã.
Tri hoà viết thường, tri thường viết minh. Ích sinh viết tường. Tâm sử khí viết cường. Vật tráng tắc lão, thị vị bất đạo, bất đạo tảo dĩ.
*
Người
nào có đức dày thì như con đỏ. Độc trùng không chích, mãnh hổ không vồ,
ác điểu không quắp. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, chưa biết
giao hợp mà con cu dựng đứng, như vậy là tinh khí sung túc. Suốt ngày
gào hét mà giọng không khản, như vậy là khí cực hoà.
Biết
“hoà” thì gọi là bất biến (thường), biết bất biến thì gọi là “sáng”.
Túng dục tham sinh thì gọi là hoạ. Để cho lòng [dục] sai khiến cái “khí”
thì gọi là “cường”. Vật nào cường tráng thì sẽ già, như vậy là không
hợp đạo, không hợp đạo thì sớm chết.
56
*
知者不言, 言者不知. 塞其兌, 閉其門, 挫其銳, 解其紛, 和其光, 同其塵. 是謂玄同.
故不可得而親; 不可得而疏; 不可得而利; 不可得而害; 不可得而貴; 不可得而賤. 故爲天下貴.
*
Tri
giả bất ngôn; ngôn giả bất tri. Tắc kì đoài, bế kì môn, toả kì nhuệ,
giải kì phân, hoà kì quang, đồng kì trần. Thị vị huyền đồng.
Cố
bất khả đắc nhi thân; bất khả đắc nhi sơ; bất khả đắc nhi lợi; bất khả
đắc nhi hại; bất khả đắc nhi quí; bất khả đắc nhi tiện. Cố vi thiên hạ
quí.
*
Người
nào biết [đạo] thì không nói [về đạo], người nào nói thì không biết.
Ngăn hết các lối, đóng hết các cửa (coi chương 52), không để lộ sự tinh
nhuệ ra, gỡ những rối loạn, che bớt ánh sáng, hoà với trần tục (coi
chương 4), như vậy gọi là “huyền đồng” (hoà đồng với vạn vật một cách
hoàn toàn).
[Đạt
tới cảnh giới đó thì] không ai thân, cũng không có ai sơ với mình được
(vì mình đã ngăn hết các lối, đóng hết các cửa, bỏ dục vọng, giữ lòng hư
tĩnh); không ai làm cho mình được lợi hay bị hại (vì mình không để lộ
sự tinh nhuệ, gỡ những rối loạn, giữ sự giản phác); không ai làm cho
mình cao quí hay đê tiện được (vì mình đã che bớt ánh sáng, hoà đồng với
trần tục). Vì vậy mà tôn quí nhất trong thiên hạ.
以正治國, 以奇用兵, 以無事取天下.
吾何以知其然哉? 以此: 天下多忌諱而民彌貧; 朝多利器, 國家滋昏; 人多伎巧, 奇物滋起; 法令滋彰, 盜賊多有.
故聖人云: 我無爲而民自化, 我好靜而民自正, 我無事而民自富, 我無欲而民自樸.
*
Dĩ chính trị quốc, dĩ kì dụng binh, dĩ vô sự thủ thiên hạ.
Ngô
hà dĩ tri kì nhiên tai? Dĩ thử: Thiên hạ đa kị huý nhi dân di bần;
triều đa lợi khí, quốc gia tư hôn; nhân đa kĩ xảo, kì vật tư khởi; pháp
lệnh tư chương, đạo tặc đa hữu.
Cố
thánh nhân vân: ngã vô vi nhi dân tự hoá, ngã hiếu tĩnh nhi dân tự
chính, ngã vô sự nhi dân tự phú; ngã vô dục nhi dân tự phác.
*
Dùng chính trị mà trị nước, dùng thuật kì mà tác chiến, [nhưng cả hai cách đó đều không thích hợp], chỉ vô sự mới được thiên hạ.
Do
đâu mà biết được như vậy? Do lẽ này: Thiên hạ mà có nhiều lệnh cấm thì
nước càng nghèo [vì làm thì sợ mắc tội này tội khác]; triều đình càng
nhiều “lợi khí” [tức quyền mưu? Coi chương 36] thì quốc gia càng hỗn
loạn; người trên càng nhiều kĩ xảo thì việc bậy càng sinh ra nhiều; pháp
lệnh càng nghiêm khắc thì đạo tặc càng nổi.
Cho
nên thánh nhân bảo: ta không làm gì (vô vi) mà dân tự cải hoá, ta ưa
thanh tĩnh mà dân tự nhiên thuần chính, ta không ban giáo lệnh mà dân tự
phú túc, ta vô dục mà dân tự hoá ra chất phác.
其政悶悶, 其民醇醇; 其政察察, 其民缺缺.
禍兮福之所倚, 福兮禍之所伏. 孰知其極? 其無正. 正復爲奇, 善復爲妖. 人之迷, 其日故久.
是以聖人方而不割, 廉而不劌, 直而不肆, 光而不耀.
*
Kì chính muộn muộn, kì dân thuần thuần; kì chính sát sát, kì dân khuyết khuyết.
Hoạ
hề phúc chi sở ỷ, phúc hề hoạ chi sở phục. Thục tri kì cực? Kì vô
chính. Chính phục vi kì, thiện phục vi yêu. Nhân chi mê, kì nhật cố cửu.
Thị dĩ thánh nhân phương nhi bất cát, liêm nhi bất quế, trực nhi bất tứ, quang nhi bất diệu.
*
Chính
lệnh mập mờ (khoan hồng) thì dân thuần hậu; chính lệnh rõ ràng (hình
pháp nghiêm minh quá) thì dân kiêu bạc. Hoạ là chỗ dựa của phúc, phúc là
chỗ nấp của hoạ, ai biết được cứu cánh ra sao? Hoạ phúc không có gì
nhất định. Chính có thể biến thành ta, thiện có thể biến thành ác. Loài
người mê hoặc [không hiểu được lẽ đó] đã từ lâu rồi.
Chỉ
có bậc thánh nhân [biết được lẽ hoạ phúc vô định đó], nên tuy chính
trực mà không làm thương tổn người, tuy có cạnh gốc mà không hại người,
tuy cương trực mà không phóng túng, xúc phạm người, tuy sáng rỡ mà không
chói loà.
59
*
治人, 事天莫若嗇. 夫唯嗇, 是以 早服, 早服, 謂之重積德; 重積德則無不克, 無 不克則莫知其極; 莫知其極, 可以有國; 有國之母, 可以長久, 是謂深根固柢, 長生 久視之道.
*
Trị
nhân, sự thiên mạc nhược sắc. Phù duy sắc, thị dĩ tảo phục, tảo phục vị
chi trọng tích đức; trọng tích đức tắc vô bất khắc, vô bất khắc, tắc
mạc tri kì cực; mạc tri kì cực, khả dĩ hữu quốc; hữu quốc chi mẫu, khả
dĩ trường cửu, thị vị thâm căn cố đế, trường sinh cửu thị chi đạo.
*
Trị
dân và tu thân thì không gì bằng tiết kiệm [tinh thần, trí óc]; có tiết
kiệm thì mới sớm phục tòng đạo; sớm phục tòng đạo thì tích được nhiều
đức; tích được nhiều đức thì không gì không khắc phục được; không gì
không khắc phục thì năng lực của mình không biết tới đâu là cùng; năng
lực không biết tới đâu là cùng thì trị được nước; nắm được cái gốc (mẹ)
của đạo trị nước, thì có thể tồn tại được lâu dài. Như vậy là rễ sâu,
gốc vững, [nắm được] cái đạo trường tồn.
60
*
治大國若烹小鮮.
以道蒞天下, 其鬼不神. 非其鬼不神, 其神不傷人. 非其神不傷人, 聖人亦不傷人. 夫兩不相傷, 故德交歸焉.
*
Trị đại quốc nhược phanh tiểu tiên.
Dĩ
đạo lị thiên hạ, kì quỉ bất thần. Phi kì quỉ bất thần, kì thần bất
thương nhân. Phi kì thần bất thương nhân, thánh nhân diệc bất thương
nhân. Phù lưỡng bất tương thương, cố đức giao qui yên.
*
Trị
nước lớn cũng như nấu nướng cá nhỏ (nấu cá nhỏ mà lật lên lật xuống,
động tới nó nhiều quá, nó sẽ nát; trị nước lớn mà chính lệnh phiền hà,
pháp lệnh thay đổi nhiều quá, can thiệp vào việc dân nhiều quá, dân sẽ
trá nguỵ, chống đối).
Dùng
đạo mà trị thiên hạ thì quỉ không linh; chẳng những quỉ không linh mà
thần cũng không làm hại được người; chẳng những thần không hại được
người mà thánh nhân cũng không làm hại người. Hai bên [một bên là quỉ,
thần, thánh nhân, một bên là người] không làm hại nhau, cho nên đức quí
cả về dân [dân yên ổn làm ăn mà gắng sức sửa đức].
61
*
大國者下流, 天下之交, 天下之牝.
牝常以靜勝牡, 以靜爲下. 故大國以下小國則取小國; 小國以下大國則取大國.
故或下以取; 或下而取. 大國不過欲兼畜人, 小國不過欲入事人. 夫兩者各得所欲, 大者宜下.
*
Đại quốc giả hạ lưu, thiên hạ chi giao, thiên hạ chi tẫn.
Tẫn
thường dĩ tĩnh thắng mẫu, dĩ tĩnh vi hạ. Cố đại quốc dĩ hạ tiểu quốc
tắc thủ tiểu quốc; tiểu quốc dĩ hạ đại quốc tắc thủ đại quốc.
Cố
hoặc hạ dĩ thủ; hoặc hạ nhi thủ. Đại quốc bất quá dục kiêm súc nhân;
tiểu quốc bất quá dục nhập sự nhân. Phù lưỡng giả các đắc sở dục, đại
giả nghi hạ.
*
Nước
lớn nên ở chỗ thấp, chỗ qui tụ của thiên hạ, nên giống như giống cái
trong thiên hạ. Giống cái nhờ tĩnh mà thắng giống đực [ham động], lấy
tĩnh làm chỗ thấp. Cho nên nước lớn mà khiêm hạ đối với nước nhỏ thì
được nước nhỏ xưng thần; nước nhỏ mà khiêm hạ đối với nước lớn thì được
nước lớn che chở. Như vậy là một bên khiêm hạ để được [nước nhỏ xưng thần], một bên khiêm hạ mà được
[nước lớn che chở]. Nước lớn chẳng qua chỉ muốn gồm nuôi nước nhỏ, nước
nhỏ chẳng qua muốn thờ nước lớn. Khiêm hạ thì cả hai đều được như ý
muốn; nhưng nước lớn phải khiêm hạ mới được.
62
*
道者萬物之奧, 善人之寶, 不善人之所保.
美言可以示尊, 美行可以加人. 人之不善, 何棄之有? 故立天子, 置三公, 雖有拱璧, 以先駟馬, 不如坐進此道.
古之所以貴此道者何? 不曰: 求以得, 有罪以免邪? 故爲天下貴.
*
Đạo
giả vạn vật chi áo, thiện nhân chi bảo, bất thiện nhân chi sở bảo. Mĩ
ngôn khả dĩ thị tôn, mĩ hành khả dĩ gia nhân. Nhân chi bất thiện, hà khí
chi hữu? Cố lập thiên tử, trí tam công, tuy hữu củng bích, dĩ tiên tứ
mã, bất như toạ tiến thử đạo.
Cổ chi sở dĩ quí thử đạo giả hà? Bất viết: Cầu dĩ đắc, hữu tội dĩ miễn da? Cố vi thiên hạ quí.
*
Đạo là chỗ ẩn náo của vạn vật [vì đạo dung nạp vạn vật], là vật quí của người tốt, chỗ nhờ cậy của người không tốt.
Lời
nói hay có thể làm cho mình được tôn trọng, hành vi đẹp có thể làm cho
mình hoá cao thượng. Nhưng còn người không tốt [mà biết nhờ cậy đạo] thì
sao lại bỏ? Cho nên lập ngôi thiên tử, đặt ngôi tam công, dù [trong
buổi lễ] hai tay bưng ngọc bích lớn đi trước xe tứ mã, cũng không bằng
quì dâng đạo đó lên.
Người
xưa sở dĩ quí đạo là vì đâu? Chẳng phải là vì: [nhờ đạo mà] hễ cầu cái
gì được cái nấy, có tội thì được tha ư? Vì vậy mà đạo được thiên hạ quí.
63
*
爲無爲, 事無事, 味無味. 大小多少, 報怨以徳.
圖難於其易, 爲大於其細. 天下難事必作於易, 天下大事必作於細.
是以聖人終不爲大, 故能成其大. 夫輕諾必寡信, 多易必多難. 是以聖人猶難之, 故終無難矣.
*
Vi vô vi, sự vô sự, vị vô vị. Đại tiểu đa thiểu, báo oán dĩ đức.
Đồ nan ư kì dị; vi đại ư kì tế. Thiên hạ nan sự tất tác ư dị, thiên hạ đại sự tất tác ư tế.
Thị
dĩ thánh nhân chung bất vi đại, cố năng thành kì đại. Phù khinh nặc tất
quả tín, đa dị tất đa nan. Thị dĩ thánh nhân do nan chi, cố chung vô
nan hĩ.
*
[Thánh
nhân] trị [thiên hạ] theo chính sách vô vi, thi hành theo nguyên tắc vô
sự, giữ thái độ điềm đạm. Xem cái nhỏ như lớn, cái ít như nhiều, lấy
đức báo oán. Giải quyết việc khó từ khi còn dễ, thực hành việc lớn từ
khi còn nhỏ [vì] việc khó trong thiên hạ khởi từ chỗ dễ, việc lớn trong
thiên hạ khởi từ lúc còn nhỏ. Do đó thánh nhân trước sau không làm việc
gì lớn mà thực hiện được việc lớn.
Người
nào hứa một cách dễ dàng quá thì ít tin được, cho việc gì cũng dễ làm
thì sẽ gặp nhiều cái khó. Cho nên thánh nhân coi việc gì cũng khó mà rốt
cuộc không gặp gì khó.
64
*
其安易持, 其未兆易謀, 其脆易泮, 其微易散. 爲之於未有, 治之於未亂.
合抱之木, 生於毫末. 九層之臺, 起於累土; 千里之行, 始於足下.
爲者敗之, 執者失之. 是以聖人無爲故無敗, 無執故無失. 民之從事, 常於幾成而敗之. 愼終如始, 則無敗事. 是以聖人欲不欲, 不貴難得之貨, 學不學, 復眾人之所過, 以輔萬物之自然而不敢爲.
*
Kì an dị trì, kì vị triệu dị mưu, kì thuý dị phán; kì vi dị tán. Vi chi ư vị hữu, trị chi ư vị loạn.
Hợp bão chi mộc, sinh ư hào mạt. Cửu tằng chi đài, khởi ư luỹ thổ; thiên lí chi hành, thuỷ ư túc hạ.
Vi giả bại chi; chấp giả thất chi. Thị dĩ thánh nhân vô vi cố vô bại, vô chấp cố vô thất.
Dân
chi tòng sự, thường ư cơ thành nhi bại chi. Thận chung như thuỷ, tắc vô
bại sự. Thị dĩ thánh nhân dục bất dục; bất quí nan đắc chi hoá, học bất
học; phục chúng nhân chi sở quá, dĩ phụ vạn vật chi tự nhiên nhi bất
cảm vi.
*
Cái
gì an định thì dễ nắm, điểm chưa hiện thì dễ tính, giòn thì dễ vỡ, nhỏ
thì dễ phân tán. Ngăn ngừa sự tình từ khi chưa manh nha, trị loạn từ khi
chưa thành hình.
Cây lớn một ôm, khởi sinh từ cái mầm nhỏ; đài cao chín tầng khởi từ một sọt đất, đi xa ngàn dặm bắt đầu từ một bước chân.
Dụng
tâm làm thì thất bại, cố chấp ý riêng thì hỏng việc. Vì vậy thánh nhân
không làm nên không bại, không chấp trước nên không hỏng việc.
Người
ta làm việc, thường gần tới lúc thành công lại thất bại, vì không cẩn
thận như lúc đầu. Dè sau như trước thì không hỏng việc, cho nên thánh
nhân chỉ muốn một điều là vô dục (không muốn gì cả), không quí bảo vật;
chỉ muốn học cho được vô tri vô thức để giúp mọi người lầm lạc trở về
với đạo, giúp vạn vật phát triển theo tự nhiên, mà không dám làm (tức
can thiệp vào).
65
*
古之善爲道者, 非以明民, 將以愚之. 民之難治, 以其智多. 故以智治國, 國之賊, 不以智治國, 國之福. 知此兩者, 亦稽式. 常知稽式, 是謂玄徳. 玄徳深矣, 遠矣, 與物反矣! 然後乃至大順.
*
Cổ
chi thiện vi đạo giả, phi dĩ minh dân, tương dĩ ngu chi. Dân chi nan
trị, dĩ kì trí đa. Cố dĩ trí trị quốc, quốc chi tặc, bất dĩ trí trị
quốc, quốc chi phúc. Tri thử lưỡng giả, diệc kê thức. Thường tri kê
thức, thị vị huyền đức. Huyền đức thâm hĩ, viễn hĩ, dữ vật phản hĩ!
Nhiên hậu nãi chí đại thuận.
*
Thời
xưa, người khéo dùng đạo trị nước thì không làm cho dân khôn lanh cơ
xảo, mà làm cho dân đôn hậu chất phác. Dân sở dĩ khó trị là vì nhiều trí
mưu. Cho nên dùng trí mưu trị nước là cái hoạ cho nước, không dùng trí
mưu trị nước là cái phúc cho nước. Biết phép tắc thì gọi là “huyền diệu”
(huyền đức). Đức huyền diệu sâu thẳm, cùng với vạn vật
trở về gốc [về đạo chất phác tức qui căn] rồi sau mới đạt được sự thuận
tự nhiên [cùng với đạo là một].
江海所以能爲百谷王者, 以其善下之, 故能爲百谷王. 是以聖人欲上民, 必以言下之; 欲先民, 必以身後之. 是以聖人處上而民不重; 處前而民不害. 是以天下樂推而不厭. 以其不爭, 故天下莫能與之爭.
*
Giang
hải sở dĩ năng vi bách cốc vương giả, dĩ kì thiện hạ chi, cố năng vi
bách cốc vương. Thị dĩ thánh nhân dục thượng dân, tất dĩ ngôn hạ chi;
dục tiên dân, tất dĩ thân hậu chi. Thị dĩ thánh nhân xử thượng nhi dân
bất trọng; xử tiền nhi dân bất hại. Thị dĩ thiên hạ lạc thôi nhi bất
yếm. Dĩ kì bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh.
*
Sông
biển sở dĩ làm vua trăm khe lạch [là nơi qui tụ của mọi khe] vì khéo ở
dưới thấp nên làm vua trăm khe lạch. Vì thánh nhân muốn ở trên dân thì
phải nói lời khiêm hạ, muốn ở trước dân thì phải lùi lại sau. Vì vậy
thánh nhân ở trên mà dân không thấy nặng cho mình [không có cảm giác
gánh vác trên vai], ở trước mà dân không thấy hại cho mình; vì vậy thiên
hạ vui vẻ đẩy thánh nhân tới trước mà không chán. Không tranh với ai
cho nên không ai tranh giành với mình được.
天下皆謂我道大, 似不肖. 夫惟大, 故似不肖. 若肖, 久矣其細也夫.
我有三寶, 持而保之: 一日慈, 二日儉, 三日不敢爲天下先. 慈故能勇, 儉故能廣, 不敢爲天下先, 故能成器長. 今舎慈且勇, 舎儉且廣, 舎後且先, 死矣!
夫慈, 以戰則勝, 以守則固. 天將救之, 以慈衛之.
*
Thiên hạ giai vị ngã đạo đại, tự bất tiếu. Phù duy đại, cố tự bất tiếu. Nhược tiếu, cửu hỹ kì tế dã phù.
Ngã
hữu tam bảo, trì nhi bảo chi: nhất viết từ; nhị viết kiệm; tam viết bất
cảm vi thiên hạ tiên. Từ cố năng dũng; kiệm cố năng quảng, bất cảm vi
thiên hạ tiên, cố năng thành khí trưởng. Kim xá từ thả dũng, xá kiệm thả
quảng, xá hậu thả tiên, tử hĩ!
Phù từ, dĩ chiến tắc thắng, dĩ thủ tắc cố. Thiên tương cứu chi, dĩ từ vệ chi.
*
Thiên
hạ bảo đạo của ta lớn, cơ hồ không có gì giống nó cả. Vì nó lớn quá [mà
lại không có hình tượng] nên không có gì giống nó cả. Nếu có thì nó đã
là nhỏ từ lâu rồi.
Ta
có ba vật báo mà ta ôm giữ cẩn thận: một là lòng từ ái, hai là tính
kiệm ước, ba là không dám đứng trước thiên hạ. Vì từ ái nên [tận lực che
chở dân] mà sinh ra dũng cảm; vì kiệm ước nên hoá ra sung túc, rộng
rãi; vì không dám đứng trước thiên hạ nên mới được làm chủ thiên hạ. Nếu
không từ ái mà mong được dũng cảm; không kiệm ước mà mong được sung
túc, rộng rãi; không chịu đứng sau người mà tranh đứng trước người, thì
tất phải chết! Vì từ ái nên hễ chiến đấu thì thắng, cố thủ thì vững.
Trời muốn cứu ai thì cho người đó lòng từ ái để tự bảo vệ [hoặc: thì lấy
lòng từ ái mà giúp người đó].
善爲士者不武, 善戰者不怒, 善勝敵者不與, 善用人者爲之下. 是謂不爭之徳, 是謂用人之力, 是謂配天之極.
*
Thiện
vi sĩ giả bất vũ, thiện chiến giả bất nộ, thiện thắng địch giả bất dữ,
thiện dụng nhân giả, vi chi hạ, thị vị bất tranh chi đức, thị vị dụng
nhân chi lực, thị vị phối thiên chi cực.
*
Viên
tướng giỏi không tỏ ra vũ dũng, người giỏi tác chiến không tỏ ra hung
hăng, người khéo thắng dịch không giao phong với địch, người khéo chỉ
huy thì tự đặt mình ở dưới người. Như vậy là có cái đức không tranh với
người, như vậy là biết dùng sức của người, như vậy là hoàn toàn hợp với đạo.
*
Dùng
binh và dùng người đều phải hợp với đạo, giữ thái độ không tranh với
ai: “bất vũ, bất nộ, bất dữ” là không tranh với địch; “xử hạ” là không
tranh với người vì “không tranh với ai cho nên không ai tranh với mình
được (chương 66).
Dụng
binh hữu ngôn: “Ngô bất cảm vi chủ nhi vi khách, bất cảm tiến thốn nhi
thối xích”. Thị vị hàng vô hàng, nhương vô tí, nhưng vô địch, chấp vô
binh. Hoạ mạc đai ư khinh địch, khinh địch cơ táng ngô bảo. Cố kháng
binh tương gia, ai giả thắng hĩ.
*
Thuật
dụng binh có câu: “Ta không dám làm chủ (tức khiêu chiến) mà chỉ muốn
làm khách (tức ứng chiến), không dám tiến một tấc, thà chịu lùi một
thước (không muốn hung hăng mà chịu nhường địch)”. Như vậy dàn trận mà
không thành hàng, xua đuổi mà không dám đưa cánh tay ra. Tuy có binh khí
mà như không dùng binh khí, tuy có địch mà như không chạm trán với
địch.
Hoạ
không gì lớn bằng khinh địch, khinh địch thì sẽ mất những vật báo của
ta. Cho nên khi hai bên cử binh giao chiến, bên nào từ ái bên đó sẽ
thắng lợi.
70
*
吾言甚易知, 甚易行. 天下莫能知, 莫能行.
言有宗, 事有君. 夫唯無知, 是以不知我.
知我者希, 則我者貴. 是以聖人被褐懐玉.
*
Ngô ngôn thậm dị tri, thậm dị hành. Thiên hạ mạc năng tri, mạc năng hành.
Ngôn hữu tông, sự hữu quân. Phù duy vô tri, thị dĩ bất tri ngã.
Tri ngã giả hi, tắc ngã giả quí. Thị dĩ thánh nhân bị hạt hoài ngọc.
*
Lời
[dạy] của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, mà thiên hạ không ai hiểu được,
làm được. Lời của ta có tôn chỉ, việc của ta có căn bản [tôn chỉ, căn
bản đó tức đạo: thuận tự nhiên, vô vi]. Vì thiên hạ không hiểu ngôn luận
của ta nên không biết ta. Người hiểu ta rất ít, người theo cũng rất
hiếm [nguyên văn là quí, mà hiếm tức là quí]. Cho nên thánh nhân bận áo
vải thô mà ôm ngọc quí trong lòng.
71
知不知上; 不知知病. 聖人不病, 以其病病. 夫唯病病, 是以不病.
*
Tri bất tri thượng; bất tri tri bệnh. Thánh nhân bất bệnh, dĩ kì bệnh bệnh. Phù duy bệnh bệnh, thị dĩ bất bệnh.
*
Biết
mà làm ra vẻ ngu tối là cao minh; không biết mà làm ra vẻ biết rõ, sáng
suốt là sai lầm. Thánh nhân sở dĩ không có tật sai lầm đó vì nhận cái
tật đó là tật (dĩ kì bệnh – chữ bệnh trên là động từ, chữ bệnh dưới là danh từ). Cho cái tật sai lầm đó là tật cho nên mới không sai lầm.
民之不畏威則大威至. 無狎其所居, 無厭其所生. 夫唯不厭, 是以不厭. 是以聖人自知不自見: 自愛不自貴. 故去彼取此.
*
Dân
chi uý uy tắc đại uy chí. Vô hiệp kì sở cư, vô yếm kì sở sinh. Phù duy
bất yếm, thị dĩ bất yếm. Thị dĩ thánh nhân tự tri bất tự hiện, tự ái bất
tự quí. Cố khử bỉ thủ thử.
*
Dân
mà không sợ sự uy hiếp (tức hà chính, bạo hình) của vua thì sự uy hiếp
lớn của dân sẽ đến với vua (tức dân sẽ nổi loạn). Đừng bó buộc đời sống
của dân (để cho dân an cư), đừng áp bức cách sinh nhai của dân. Vì không
áp bức dân nên dân mới không bức lại vua (không phản kháng).
Vì
vậy thánh nhân biết quyền năng của mình mà không biểu lộ ra, yêu cái
đức của mình mà không tự cho là tôn quí. Cho nên bỏ cái sau (tự hiện, tự
quí) mà giữ cái trước (tự tri, tự ái).
73
*
勇於敢則殺, 勇於不敢則活. 此兩者或利, 或害, 天之所惡, 孰知其故? 是以聖人猶難之.
天之道不爭而善勝, 不言而善應, 不召而自來, 繟然而善謀.
天網恢恢, 疏而不失.
*
Dũng
ư cảm tắc sát, dũng vu bất cảm tắc hoạt. Thử lưỡng giả hoặc lợi, hoặc
hại, thiên chi sở ố, thục tri kì cố? Thị dĩ thánh nhân do nan chi.
Thiên chi đạo bất tranh nhi thiện thắng, bất ngôn nhi thiện ứng, bất triệu nhi tự lai; thiện nhiên nhi thiện mưu.
Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất.
*
Mạnh
mẽ về dám làm (tức quả cảm cương cường) thì chết, mạnh mẽ về không dám
làm (tức thận trọng, nhu nhược) thì sống. Hai cái đó cùng là mạnh mẽ, mà
một cái được lợi, một cái bị hại; ai mà biết được tại sao trời lại ghét
cái đó [cái cương cường]? Dẫu thánh nhân cũng còn cho là khó biết thay.
Đạo
trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn
vật tự tới, bình thản vô tâm mà khéo mưu tính mọi việc.
Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt.
74
民不畏死, 奈何以死懼之? 若使民常畏死而爲奇者, 吾得執而殺之, 執敢?
常有司殺者殺. 夫代司殺者殺, 是謂代大匠斵. 夫代大匠斵者, 希有不傷其手矣.
*
Dân bất uý tử, nãi hà dĩ tử cụ chi? Nhược sử dân thường uý tử nhi vi kì giả, ngô đắc chấp nhi sát chi, thục cảm?
Thường
hữu ti sát giả sát. Phù đại ti sát giả sát, thị vị đại đại tượng trác.
Phù đại đại tượng trác giả, hi hữu bất thương kì thủ hĩ.
*
Dân
không sợ chết thì sao lại dùng tử hình doạ dân? Nếu làm cho dân luôn
luôn sợ chết, mà có kẻ nào phạm pháp ta cũng bắt được mà giết thì ai còn
dám phạm pháp nữa?[Sự thực không phải như vậy cho nên hình pháp mới vô
hiệu].
Có
đấng “ti sát” (tức đạo trời) chuyên lo việc giết, nếu vua chúa thay
đấng ti sát mà giết dân thì cũng như thay thợ đẽo. Thay thợ đẽo thì ít
khi không đứt tay.
*
75
*
民之饑, 以其上食稅之多, 是以饑.
民之難治, 以其上之有爲, 是以難治.
民之輕死, 以其上求生之厚, 是以輕死.
夫唯無以生爲者, 是賢於貴生.
*
Dân chi cơ, dĩ kì thượng thực thuế chi đa, thị dĩ cơ.
Dân chi nan trị, dĩ kì thượng chi hữu vi, thị dĩ nan trị.
Dân chi khinh tử, dĩ kì thượng cầu sinh chi hậu, thị dĩ khinh tử.
Phù duy vô dĩ sinh vi giả, thị hiền ư quí sinh.
*
Dân sở dĩ đói là vì nhà cầm quyền thu thuế nặng nặng quá, cho nên dân đói.
Dân sở dĩ khó trị là vì nhà cầm quyền dùng chính lệnh phiền hà, cho nên dân khó trị.
Dân sở dĩ coi thường cái chết là vì nhà cần quyền tự phụng dưỡng quá hậu, cho nên dân coi thường sự chết.
Nhà cầm quyền mà vô dục, đạm bạc thì hơn là quí sinh, hậu dưỡng.
76
*
人之生也柔弱, 其死也堅强. 萬物草木之生也柔脆, 其死也枯稿.
故堅强者, 死之徒; 柔弱者, 生之徒. 是以兵强則不勝, 木强則兵. 故堅强處下, 柔弱處上.
*
Nhân chi sinh dã nhu nhược, kì tử dã kiên cường. Vạn vật thảo mộc chi sinh dã nhu thuý. Kì tử dã khô cảo.
Cố
kiên cường giả, tử chi đồ; nhu nhược giả, sinh chi đồ. Thị dĩ binh
cường tắc bất thắng, mộc cường tắc binh. Cố kiên cường xử hạ, nhu nhược
xử thượng.
*
Người ta sinh ra thì mềm yếu mà khi chết thì cứng đơ. Thảo mộc sinh ra thì mềm dịu mà khi chết thì khô cứng.
Cho
nên cứng mạnh là cùng loài với chết, mềm yếu là cùng loài với sống. Vì
vậy binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì bị chặt. Cứng mạnh phải ở
dưới, mềm yếu được ở trên.
77
*
天之道其猶張弓與? 高者抑之, 下者擧之. 有餘者損之, 不足者補之. 天之道損有餘而補不足; 人之道則不然, 損不足以奉有餘. 孰能有餘以奉天下? 唯有道者.
是以聖人爲而不侍, 功成而不處. 其不欲見賢.
*
Thiên
chi đạo kì do trương cung dữ? Cao giả ức chi, hạ giả cử chi. Hữu dư giả
tổn chi, bất túc giả bổ chi. Thiên chi đạo tổn hữu dư nhi bổ bất túc;
nhân chi đạo tắc bất nhiên, tổn bất túc dĩ phụng hữu dư. Thục năng hữu
dư dĩ phụng thiên hạ? Duy hữu đạo giả.
Thị dĩ thánh nhân vi nhi bất thị, công thành nhi bất xử. Kì bất dục hiện hiền.
*
Đạo trời giống như buộc dây cung vào cung chăng? (Chữ trương cung ở đây không có nghĩa là giương cung để bắn).
Dây cung ở cao quá thì hạ nó xuống, ở thấp quá thì đưa nó lên; dài quá
thì bỏ bớt đi, ngắn quá thì thêm vào. Đạo trời bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu.
Đạo người (thói thường của con người) thì không vậy, bớt chỗ thiếu mà
cấp thêm cho chỗ dư. Ai là người có dư mà cung cấp cho những người thiếu
thốn trong thiên hạ? Chỉ có người đắc đạo mới làm được như vậy.
Cho nên thánh nhân làm mà không cậy khéo, việc thành mà không quan tâm tới, không biểu hiện đức của mình ra.
78
*
天下莫柔弱於水, 而攻堅强者莫之能勝, 以其無以易之.
弱之勝强, 柔之勝剛, 天下莫不知, 莫能行. 是以聖人云: 受國之垢, 是謂社稜主, 受國不祥, 是謂天下王. 正言若反.
*
Thiên hạ mạc nhu nhược ư thuỷ, nhi công kiên cường giả mạc chi năng thắng, dĩ kì vô dĩ dịch chi.
Nhược
chi thắng cường, nhu chi thắng cương, thiên hạ mạc bất tri, mạc năng
hành. Thị dĩ thánh nhân vân: “Thụ quốc chi cấu, thị vị xã tắc chủ, thụ
quốc bất tường, thị vị thiên hạ vương”. Chính ngôn nhược phản.
*
Trong thiên hạ không gì mềm yếu bằng nước mà thắng được những vật cứng không gì bằng nó, không gì thay nó được.
Yếu
thắng mạnh, mềm thắng cứng, không ai không biết lẽ đó nhưng không ai
thực hành được. Cho nên thánh nhân bảo: “Chịu nhận cái ô nhục trong nước
thì mới làm chủ xã tắc được, chịu nhận tai hoạ trong thiên hạ thì mới
làm vua thiên hạ được”. Lời hợp đạo nghe như ngược đời.
和大怨, 必有餘怨, 安可以爲善? 是以聖人執左契, 而不責於人. 有徳司契, 無徳司徹. 天道無親,常與善人.
*
Hoà
đại oán, tất hữu dư oán, an khả dĩ vi thiện? Thị dĩ thánh nhân chấp tả
khế, nhi bất trách ư nhân. Hữu đức ti khế; vô đức ti triệt. Thiên đạo vô
thân, thường dữ thiện nhân.
*
Giải được cái oán lớn thì vẫn còn chút oán thừa [ở trong lòng], như vậy sao gọi là phải?
Cho
nên thánh nhân cầm phía bên trái tờ khế (tờ hợp đồng) mà đời không
nhận. Người có đức thì cầm [phía trái] tờ khế, người không có đức thì
đòi người ta phải trả.
Đạo trời không tư vị ai, chỉ gia ân cho người có đức.
80
*
小國寡民, 使有什伯之器而不用, 使民重死而不遠徒. 雖有舟輿, 無所乘之; 雖有甲兵, 無所陳之. 使人復結繩而用之. 甘其食, 美其服, 安其居, 樂其俗. 鄰國相望, 雞犬之聲相聞, 民至老死不相往來.
*
Tiểu
quốc quả dân, sử hữu thập bách chi khí nhi bất dụng, sử dân trọng tử
nhi bất viễn tỉ. Tuy hữu chu dư, vô sở thừa chi; tuy hữu giáp binh, vô
sở trần chi. Sử dân phục kết thằng nhi dụng chi. Cam kì thực, mĩ kì
phục, an kì cư, lạc kì tục. Lân quốc tương vọng, kê khuyển chi thanh
tương văn, dân chí lão tử bất tương vãng lai.
*
Nước
nhỏ, dân ít, dù có khí cụ gấp chục gấp trăm sức người cũng không dùng
đến. Ai nấy đều coi sự chết là hệ trọng nên không đi đâu xa. Có thuyền,
xe mà không ngồi, có binh khí mà không bày. [Bỏ hết văn tự] bắt dân dùng
lại lối thắt dây thời thượng cổ. Thức ăn đạm bạc mà thấy ngon, quần áo
tầm thường mà cho là đẹp, nhà ở thô sơ mà thích, phong tục giản phác mà
lấy làm vui (nghĩa là chỉ lo ăn no, mặc ấm, ở yên, sống vui, ghét xa
xỉ). Các nước láng giềng gần gũi có thể trông thấy nhau, nước này nghe
được tiếng gà tiếng chó ở nước kia, mà nhân dân các nước ấy đến già chết
cũng không qua lại với nhau.
81
信言不美, 美言不信. 善者不辯, 辯者不善. 知者不博, 博者不知.
聖人不積, 既以爲人已餘有, 既以與人已愈多. 天之道, 利而不害. 聖人之道, 爲而不爭.
*
Tín ngôn bất mĩ, mĩ ngôn bất tín. Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện. Tri giả bất bác, bác giả bất tri.
Thánh
nhân bất tích, kí dĩ vi nhân kỉ dư hữu, kí dĩ dữ nhân kỉ dũ đa. Thiên
chi đạo, lợi nhi bất hại. Thánh nhân chi đạo, vi nhi bất tranh.
*
Lời
nói chân thực thì không hoa mĩ, lời nói hoa mĩ thì không chân thực.
Người “thiện” thì không cần biện giải (vì hành vi tốt rồi), người nào
phải biện giải cho mình là người “không thiện”. Người sáng suốt hiểu đạo
thì tri thức không cần rộng (vì nắm được chân lí là đủ rồi), người nào
tri thức rộng thì không sáng suốt, hiểu đạo (vì tìm ngọn thì quên gốc).
Bậc
thánh nhân vô dục, không tích trữ, càng giúp người, mình lại càng có
dư, càng cho người, mình lại càng có nhiều. Đạo trời chỉ có lợi cho vạn
vật chứ không có hại; đạo thánh nhân giúp người mà không tranh với ai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét